Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

KHÔNG CÒN ĐÔI NẠNG GỖ

KHÔNG CÒN ĐÔI NẠNG GỖ




* Thương tiếc Việt Dzũng

Đường anh đi nhẹ tênh, không cần đôi nạng gỗ
Bao nhiêu niềm thương nhớ, bao ước vọng hoài mơ
Anh để lại nguồn thơ cho cuộc đời hiện thực
Trái tim hồng đỏ rực như ánh sáng mặt trời

Anh đi về biển khơi, không cần đôi nạng gỗ
Anh chèo mưa bão tố đi cứu vớt hình hài
Đại dương nào chờ ai? Anh là con sóng biển
Thuyền đi vào miên viễn, anh gọi tiếng bi ai

Cuộc đời bao chông gai, anh vượt qua khốn khó
Con tim buồn trăn trở, đôi nạng gỗ cưu mang
Anh hát lời ca vang, Khúc Da Vàng nhỏ lệ
Lời Kinh Đêm của Mẹ xoa dịu vết đau thương

Tiếng hát vượt trùng dương trên bước đường hoạn lộ
Dòng đời trăm nhánh trổ nên nước mắt cạn nguồn
"Chút Quà Cho Quê Hương" bao tình thương nỗi nhớ
Triệu người qua thống khổ, triệu người tim nát tan

Anh ôm đàn tình tang hát ru đêm bất tận
Con tim không thù hận đi gieo rắt tình người
Cuộc đời vẫn nổi trôi, quê hương còn đen tối
Bao năm dài mong mỏi cho đất nước yên vui

Anh không còn đơn côi trên dòng đời bão nổi
Trái tim không mệt mỏi cho khát vọng quê hương
Anh là nguồn yêu thương, tin yêu và hy vọng
Vòng tay anh mở rộng cho đất nước tình người

Anh như làn mây trôi giữa khung trời tĩnh lặng
Không gian buồn sâu lắng trong tiếng gọi tên anh
Bầu trời xanh vẫn xanh, anh yên lành giấc ngủ
Cuộc đời như quá đủ cho giấc mơ một người.



Xuân Mai

VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC!



VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC!








Việt Dzũng, nhạc sĩ, nghệ sĩ, nhà báo, người hoạt động quên mình, tận tâm, không ngừng cùng đồng bào hải ngoại giương cao ngọn cờ vàng chính nghĩa chống cộng sản, tranh đấu cho quyền làm người, tình thương và công lý, chân thiện mỹ, truyền thông và nghệ thuật. Anh Việt Dzũng là con cưng của nước Việt, vừa qua đời tại nam California hôm nay Thứ Sáu ngày 20.12. 2013.
Nguyện cầu cho linh hồn Việt Dzũng vĩnh viễn bình an ở Nuớc Trời cùng Thiên Chúa, các Thánh, và các Anh Hùng Dân Tộc Việt Nam muôn thuở.


 
Nghệ sĩ Việt Dzũng

Suốt hơn ba mươi năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh..Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhứt là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng. Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên là đề tài cho các tờ báo trong nước tấn công từ hơn hai chục năm nay, với những lời vu cáo, mạ lỵ nhằm dìm anh xuống đáy vực sâu.

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Chào anh lần cuối !

Chào anh lần cuối !

Khi phải nói hai chữ Giã Biệt hay mạnh mẽ hơn Vĩnh Biệt thì qủa thật phải đau lòng nhưng chúng ta phải chấp nhận vì sự ra đi của con người không do con người quyết định theo lệ thường. Tuy rằng không có cái may mắn được sống gần anh San để hiểu anh, học hỏi từ anh, dù chỉ được gặp anh trong phút chốc tôi vẫn có ấn tuợng tốt đẹp về anh qua cử chỉ và từ ngữ anh dùng.
Hôm qua ngày 11 tháng 11 là ngày Veteran Day của Hoa Kỳ đang xem những thước phim của các cựu quân nhân Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam quađài H.2. Khi nghe những phân tích nhận định của chính những người cựu quân nhân này kể lại tôi vừa buốn vừa tức giận khi nhớ lại hoàn cảnh đau thương của đất nước mình. Mọi việc của đất nước đã vượt khỏi tầm tay của người Việt chúng ta. Chính vì vậy mà ngày 30 tháng 4 năm 1975 phải đến để rồi thương sao những người quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh trên đất nước ta và cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng đặt chân đến quê hương chúng ta với hơn 2 triệu rưỡi lượt người. Với quân lực VNCH có biết bao chiến sĩ đã hy sinh và biết bao người tàn phế nhưng cuối cùng người Việt chúng ta nói chung đã nhận lấy sự đau thương như ngày nay. Tuy rằng trên thực tế quê hương chúng ta không còn chiến tranh nhưng hậu quả vẫn kéo dài đến tận ngày nay và sẽ còn tiếp diễn ởtương lai. Chúng ta những thành phần đã từng bị tù tội, ngược đãi trong thời gian dài và vẫn còn kéo dài đến hiện tại.
Anh Trần Danh San sau bao năm trời vẫn tiếp tục chiến đấu dù trên tay anh không súng đạn nhưng những việc làm, lời nói và những bài viết của anh vẫn là những viên đạn giá trị đẻ gởi cho chế độ Cộng Sản và là phương tiện để đòi quyền sống cho dân tộc. Anh không phải là người cầm súng như chúng tôi nhưng anh đã hành xử quyền của một công dân nước Việt để rồi cùng chung số phận như chúng tôi.

Thưa anh,
Được tin anh ra đi, chúng tôi thật bất ngờ và xúc động. Anh đã miệt mài đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền trong suốt cuộc đời của anh. Anh đã tự nhận lấy trách nhiệm của một người công dân để hiên ngang lên tiếng giữa lòng địch vào ngày 23 tháng 4 năm 1977 để rồi anh chấp nhận vào tù ra khám. Nhiệm vụ đấu tranh cho nhân quyền là một nhiệm vụ quá nặng nề, khó khăn nhưng cũng rất vinh hạnh mà tổ quốc và nhân dân kỳ vọng, anh cũng như chúng tôi đưa vai gánh vác nhưng tiếc thay sự kỳ vọng đó chúng ta đã không hoàn thành. Anh đã làm hết khả năng của anh, và nhiệm vụ của anh đã hoàn thành, anh giờ đây ra đi, chúng tôi còn lại dù tuổi đời chồng chất chúng tôi cũng sẽ tiếp tục công việc đang làm.

Thưa anh,
Với thời gian chắc chắn anh em ta sẽ có một cuộc Hội Ngộ cuối cùng và toàn diện. Hẹn anh ngày ấy.
Cùng với các niên trưởng và bạn bè, thằng em xin đứng nghiêm chào anh lần cuối.

A.20 Đạo Trần
Columbus, Ohio.


tiếng hò khoan đã tắt

 Tưởng niệm
LS Trần Danh San,
           tiếng hò khoan đã tắt 
  
Phan Nhật Nam 
Phan Nhật Nam


Ngày 11 tháng 11 năm 1960, ngày lực lượng Nhảy Dù thực hiện cuộc binh biến báo hiệu cơn sóng gió của chiến cuộc và chính cuộc Miền Nam. Cũng là ngày gã thiếu niên 17 tuổi hiểu rõ Nỗi Đau và Sự Chết có thật dâng lên ngập ngập trong thân, trong lòng. Cảm giác, phản ứng nôn nao sinh tâm lý làm nghẹn đường thở, rì rầm âm động nơi trái tim với câu hỏi.. Mẹ bây giờ ở đâu? Mẹ sống, chết ra làm sao? Em đang nơi nào? Làm sao để sống? Ngày 11 tháng 11 năm nay, 2013, Lễ Cựu Chiến Binh ở Mỹ, người lính không vũ khí nặng lòng, mệt nhọc, buông xuôi... Chứng kiến Người Bạn ra đi sau những ngày, giờ chạm dần vào cánh cửa vô hình hiển hiện của Sự Chết. Trần Danh San ra đi thanh thản sau khi đã sống đủ một đời kiệt liệt.


Hai Luật Sư Trần Danh San (trái) và Triệu Bá Thiệp đang chào mừng thân hữu cựu tù Phan Ðăng Lưu trong buổi kỷ niệm ngày ra “Tuyên ngôn Nhân quyền của những người Việt Nam khốn cùng.” 

Tôi với anh không phải là bạn đồng trang lứa. Anh lớn tuổi thuộc lớp niên trưởng nếu ở trong quân ngũ, của sinh hoạt văn hóa, chính trị, xã hội Sài Gòn, Miền Nam  trước 1975. Anh là luật sư Tòa Thượng Thẫm Huế, con rể cụ Vũ Đăng Dung, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Sài Gòn, giai cấp xã hội với chuyên môn nghề nghiệp thuộc thành phần lãnh đạo ở miền Nam, cũng là của hệ thống cầm quyền thuộc các chế độ dân chủ pháp trị trên toàn thế giới. Tôi chỉ là sĩ quan cấp úy của một binh chủng thuần thành tác chiến. Nhưng chúng tôi đã nên thân thiết qua một liên hệ bằng hữu chặt chẽ. Bởi cả hai cùng chung trận tuyến quyết liệt không chấp nhận người, chủ nghĩa, chế độ cộng sản. Cho dẫu hơn ai hết, tôi và anh đồng hiểu rõ chỉ là hai cá nhân hạn chế bởi những điều kiện khách quan lẫn chủ quan, vật chất và tinh thần cần thiết cho cuộc chiến đấu không khoan nhượng và không cân sức nầy. Cuộc chiến đã bị thất bại cụ thể với Ngày 30 Tháng 4 năm 1975. Nhưng chúng tôi không hề thất vọng và tiếp tục phần đương cự trong những hoàn cảnh, điều kiện riêng.

Tôi không hề ngoa ngôn, xưng tụng vô cớ. Xin minh chứng sức mạnh tinh thần, bản lãnh kiên cường của một Con Người – Điển hình của Kẻ Sĩ Việt Nam              

Năm 1977, Sài Gòn, miền Nam đang trong gọng kìm gay gắt của chế độ cộng sản theo khuôn mẫu trại lính của Liên Xô thời Stalin. Đúng ra là hình thái trại tập trung khổng lồ nối dài từ miền Bắc theo khuôn mẫu xã hội xã hội chủ nghĩa của tổng bí thư Lê Duẩn. Trại tập trung bao gồm toàn bộ quân dân cán chính VNCH và gia đình, cùng tất cả thị dân miền Nam. Khối đông người được nói rõ ra là bị xếp vào hạng thứ 14 của 15 giai cấp xã hội theo cách đánh giá từ Bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội. Hạng thứ 15 là thành phần tội phạm hình sự gia trọng bị chung thân khổ sai, hoặc chờ thi hành án tử hình của một loại tòa án nhân dân do những cán bộ cộng sản từ bưng biền miền Nam, từ miền Bắc vào ngồi ghế chánh án. 

Sau sự kiện giới trí thức Tiệp Khắc ban hành Hiến Chương 77 chống lại nhà cầm quyền Cộng Sản Tiệp Khắc, tại Sài Gòn, trong vòng đai lửa của chế độ mới, hai Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp không thể im lặng. Cả hai đồng hoàn thành văn bản "Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng". Hai anh và nhóm trí thức bất khuất gồm hơn mười luật sư, giáo sư, kỹ sư trước 1975 hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngã tiến theo hai đường tập trung trước Nhà Thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 Tháng 4, 1977. Trần Danh San dùng cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ đọc lên bản ‘Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng’ đến cùng đồng bào Sài Gòn, cũng của miền Nam lẫn miền Bắc đang mong chờ lần phục sinh từ bãi lầy cộng sản. Anh cố đọc lần thứ hai, nhưng mới được một nửa thì công an ập tới. Hai Luật Sư San và Thiệp không bị bắt riêng rẽ, hai anh có những người bạn chiến đấu cùng chịu chung cảnh ngộ gồm các Luật Sư, Giáo Sư Vũ Đăng Dung, Nguyễn Hữu Giao, Nguyễn Quý Anh, Vũ Hùng Cương, Trần Nhật Tân, Phạm Biểu Tâm, Huỳnh Thành Vị, Nguyễn Hữu Doãn, Hà Quốc Trung và Kiến Trúc Sư Nguyễn Văn Điệp. Nhóm trí thức bị giam giữ nhiều năm tại các nhà giam khắc nghiệt nhất của miền Nam. Trại Phan Đăng Lưu,Sài gòn;Trại Z30A,Xuân Lộc; Trại A20, Xuân Phước, Phú Khánh. Trong tù, Kiến Trúc Sư Nguyễn Văn Điệp, Giáo Sư Hà Quốc Trung đồng tự sát; Luật Sư Niên Trưởng Vũ Đăng Dung, nhạc phụ của Trần Danh San lúc ấy đã qua tuổi 60.

Cần phải nhắc lại những chi tiết. Chưa tới ba-mươi tuổi, Trần Danh San đã là một trong những luật sư trẻ đã tham gia chương trình thử nghiệm đầu tiên thành lập chính quyền dân sự tại tỉnh Quảng Nam do ông Nguyễn Hữu Chi vừa học ở Mỹ về được cử nhiệm làm tỉnh trưởng năm 1966. Nhưng cuối cùng chương trình này cũng không thành công vì sức ép của chính quyền quân sự vào thời điểm ấy. Anh trở lại nghề luật nhưng mang theo một kiến thức, kinh nghiệm sâu xa về nền chính trị rối ren tại VNCH, sự hiểu biết tường tận về những nguyên nhân gây nên tranh chấp trong hàng ngũ chính quyền VNCH và quân đội. Cuộc di tản, rút khỏi miền Trung, sụp vỡ Sài Gòn tháng 3, tháng 4 năm 1975 với những chi tiết và diễn biến cho tới những ngày cuối đời, trên giường bệnh, cận tử sinh vẫn là một ám ảnh gây nên mối phẫn hận.

Mối phẫn hận tăng thêm cường độ và tính cách mới sau 1975 khiến anh và những người bạn chiến đấu không thể im lặng trước tình cảnh khốn cùng của cả dân tộc. Trần Danh San lên tiếng nói và trả giá cho quyết định của mình với ý thức không lay chuyển. Trong trại giam Phan Đăng Lưu anh nhận đòn tứ trụ với sức chịu đựng tưởng chừng như không thực: Với thân hình cao không quá “một thước-sáu” nhận đòn đánh hội đồng từ bốn tên lực lưỡng chuyên nghiệp tra khảo người. Sau những trận đòn chạm tới điểm chết, sau những tháng kiên giam nơi hầm tối của anh, viên cán bộ trưởng trại Phan Đăng Lưu có câu hỏi: Anh có ngừng chống đối không? Trần Danh San trả lời chắc chắn: Chống đối là điều tất nhiên! Câu trả lời được nhiều bạn tù nơi Phan Đăng Lưu năm ấy hiện nay đang cư trú tại vùng Nam Cali nghe rõ.

Chuyển trại từ Phan Đăng Lưu ra Z30A,Xuân Lộc rồi sau đó A20, Xuân Phước, Người Tù-Kẻ Sĩ Trần Danh San vào ngay “Chuồng Cọp Số 5” tức khu biệt giam phân trại E của A-20. Tại đây, Trần Danh San, Vũ Ánh, Thượng Tọa Thiện Minh, Võ Sư Lê Sáng... đã bị cùm liên tiếp trong nhiều năm. Không phải bị cùm thường mà “cùm Omega” bằng sắt với số vòng cùm nhỏ nhất phải dùng búa mới đóng vào được cổ chân người tù. Vũ Ánh đã nghe thấy tiếng búa của cai ngục đóng vòng cùm số 16 vào chân Trần Danh San đáng lẽ phải mang vòng cùm số 18. Trần Danh San đã không một tiếng kêu. Anh cũng không hề yêu cầu đổi vòng cùm.

Ở A-20, San thường nói với Vũ Ánh, chung một đội tù sau khi ra khỏi hầm kiên giam: “Đừng bao giờ để cho cái đầu bị tê liệt vì cái bụng và cứ coi mình là một xác chết chưa chôn thì không còn sợ hãi gì cả”. Anh giữ vững nguyên tắc nầy cho đến ngày hôm nay trên giường bệnh lúc chạm biên giới tử/sinh. Nguyên tắc bức thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, thân xác. Anh thường hoạt kê hóa câu hát ”... Khoan khoan hò ơi... Thuyền... đã đến bến rồi...” để chỉ một sự đã rồi của tất cả các tình huống.

Vâng, thưa Anh, Luật Sư Trần Danh San, Anh đã đến bến từ một thuở rất lâu. Anh đến trước mọi người trong những lúc khắc nghiệt nhất. Anh đến và đi như một thản nhiên.

Phan Nhật Nam
xin các bạn vào google (gõ LS Trần Văn San) để đọc thêm về anh



A 20 Trần Mạnh Tôn
NT. A 20 Nhan Hữu Hậu và A 20 Vũ Lonh Sơn Hải












A 20 Phùng Văn Triển










A 20 Vũ Văn Ánh










Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

“THÁC LÀ THỂ PHÁCH, CÒN LÀ TINH ANH”

                           









        “THÁC LÀ THỂ PHÁCH, CÒN LÀ TINH ANH”

Luật sư Trần Danh San đã ra đi, nhưng thanh danh luật sư Trần Danh San  đời đời lưu lại trong lịch sử.
*Luật sư Trần Danh San, người đầu tiên viết nên bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền” của những người Việt Nam khốn cùng.” (The Declaration of Human Rights of Disgraceful Vietnameses).
*Luật sư Trần Danh San, cá nhân bảo vệ nhân quyền, chống lại bạo quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1977, nguy hiểm không khác chi trường hợp “David nhỏ bé có mưu lược đánh chết anh khổng lồ Goliath.”
Quả thật, luật sư Trần Danh San xứng đáng được ví như David. Luật sư đã hiên ngang phổ biến bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền trong ba trường hợp “thập tử nhất sinh mà không một người Việt nam nào khác nghĩ đến.
1. Trước Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn
Ngày 23 tháng 4 năm 1977, luật sư Trần Danh San đọc bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Liền sau đó, luật sư Trần Danh San và các bạn trong Ủy Ban Nhân Quyền bị bắt giam giữ trong hai nhà tù:
Phan Đăng Lưu từ 23-4-1977 đến 15-5-1978
Chí Hòa từ 15-5-1978 đến 10-8-1978
2. Trong trại tù Gia Rây Xuân Lộc, Z. 30 A
Từ ngày 10-8-1978 đến 5-9-1979, bất chấp nguy hiểm, Luật Sư Trần Danh San tiếp tục phổ biến bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và văn bản “Tại Sao Chúng Tôi Phải Tranh Đấu” (Why Should We Struggle) bằng cách tự tay viết lại.
Hai văn bản nầy lần lượt chuyền tay cho nhau đọc, và học. Đặc biệt, bạn Võ Phước Thọ là một trong những bạn trẻ đã thuộc lòng hai văn bản nầy, cả bản Việt và Anh ngữ.  
Cũng vì ảnh hưởng của hai bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Tại Sao Chúng Tôi Phải Tranh Đấu, ngày 5-9-1979, luật sư Trần Danh San và một số bạn hữu bị chuyển ra miền Trung.
3. Trong trại Xuân Phước Phú Khánh, A. 20
Tại đây, luật sư Trần Danh Sanh, cùng các bạn Vũ văn Ánh, Nguyễn Chí Thiệp, và nhiều bạn trẻ khác như Phạm Đức Nhì, Ngọc Đen, Hải Bầu... chủ trương  xuất bản tập “Hợp Đoàn.”
Thêm một lần nữa hai văn bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Vì Sao Chúng Tôi Phải Tranh Đấu được ghi liên tiếp ghi lại trong các tập “Hợp Đoàn.”
4.- Tại Westminster, California, U.S.A.
Ngày 11-11-2013, luật sư Trần Danh San qua đời. Nhưng kỳ diệu thay! Lý tưởng Nhân Quyền và tinh thầnh Tranh Đấu của luật sư Trần Danh San  bừng sáng lên trong lòng tất các bạn ở Sài gòn, ở Gia Rây Xuân Lộc, và Xuân Phước Phú Khánh.
Luật sư Trần Danh San! Bạn biết hay không biết? Tôi tin là bạn đã biết!
“Một Trần Danh San ra đi! Trăm ngàn bạn Trần Danh San ở khắp năm châu còn lại, và đang noi theo gương bạn đấu tranh bảo vệ Nhân Quyền.

Bạn Trần Danh San! Bạn với tôi nhiều năm tháng quan hệ với nhau như anh em một nhà!  Tôi có biết, nhưng bạn biết hơn tôi, và bạn biết trước tôi!
Bạn biết trước tôi! “Nhân Quyền” là trọng tâm kinh-tế-chính-trị của Liên Hiệp Quốc, của 193 quốc gia hội viên, và đặc biệt của Hoa kỳ!
Bạn bình tỉnh hơn tôi! Bạn biết: Thay đổi chế độ độc tài Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là hội viên của Liên Hiệp Quốc không phải là chuyện ngắn hạn. Bạn có kế hoạch mở rộng “như vết dầu loang.” Từ Nhà Thờ Đức Bà tại Sài gòn, đến Gia Rây Xuân Lộc, đến Xuân Phước Phú Khánh, từ Việt nam đến Hoa kỳ, và rộng khắp năm châu.
Đặc biệt nhất là bạn biết trước, và biết đúng!
Bạn biết rằng: “Các bạn của bạn sẽ không bao giờ quên bạn!”

Vinh danh thay luật sư Trần Danh San! Thác là thể phách, còn là tinh anh!
Luật sư Trần Danh San! Bạn ra đi, nhưng Tinh Thần của bạn vẫn tồn tại trong Tinh Thần của các bạn hữu, của tôi, và của mọi người yêu chuộng nhân quyền hôm nay và mãi mãi về sau.

                                                                   Tăng Ngọc Hiếu


Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

NÉN NHANG CHO MỘT ANH HÙNG

NÉN  NHANG  CHO  MỘT  ANH  HÙNG






Giữa Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, do vị trí chỗ nằm ở nhà 3 lúc mới đến phân trại E, A20 Xuân Phước, tôi gần và thân Vũ Văn Ánh hơn. Với Vũ Văn Ánh, tôi có thể đặt câu hỏi trực tiếp về những điều mình muốn biết và được anh trả lời đầy đủ, cặn kẽ. Với Trần Danh San, tôi phải rình những lúc anh trò chuyện với mọi người để len lén đến ngồi nghe ké. Nguyễn Hữu Hồng, một sĩ quan trẻ và cũng hay ngồi nghe ké như tôi, có lần phát biểu:
       “Tay này đúng là trên thông thiên văn, duới thông địa lý, cái con mẹ gì hắn cũng biết. Đáng nể thật.” Nhờ những lần nghe ké như vậy sự hiểu biết của tôi được mở mang rất nhiều.
Nhưng điều làm tôi khoái Trần Danh San là lý do anh bước vào tù. Lúc ấy, ngoài những sĩ quan trình diện cải tạo như tôi, còn rất nhiều người khác bị bắt vì đã lãnh đạo hoặc tham gia các tổ chức chống lại bạo quyền cộng sản. Bấy giờ họ đã vào tù. Nhưng trước đó, khi nhập cuộc với hoài bão đòi lại quê hương, đất nước, giành lại tự do cho dân tộc, ai chẳng ít nhiều hy vọng, ước mơ có ngày công thành danh toại.
       “Ai đã từng chiến đấu, đã hy sinh
       Mà chẳng có vì một chút mình trong đó.”
Việc Kinh Kha nhận lời Thái Tử Đan đi ám sát Tần Thủy Hoàng “diệt hôn quân, trừ bạo chúa cứu muôn triệu dân lành” rõ ràng là một hành vi anh hùng, vì đại nghĩa. Chuyến đi qua sông Dịch của ông lành ít dữ nhiều; canh bạc 8, 9 phần thua, chỉ có 1, 2 phần thắng. Nhưng 1, 2 phần ấy vẫn là có hy vọng; hy vọng giết được Tần Thủy Hoàng để thỏa mãn mộng công hầu khanh tuớng.
Trần Danh San thì khác. Sau khi cùng luật sư Triệu Bá Thiệp soạn thảo bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Những Người Việt Nam Khốn Cùng”, cả hai đã hẹn nhau đến Vương Cung Thánh Đường trịnh trọng tuyên bố trước bàng dân thiên hạ rồi tươi cười bước lên xe công an, đến số 4 Phan Đăng Lưu…ngồi tù. Kinh Kha còn có 1, 2 phần hy vọng chứ Trần Danh San thì chuyện vào tù là chắc như đinh đóng cột;10 phần thì vào tù hết cả 11. Kinh Kha và Trần Danh San đều đáng gọi là anh hùng; tuy cái giá mà Trần Danh San phải trả để được gọi là anh hùng nhẹ hơn, nhưng cái anh hùng của Trần Danh San lãng mạn hơn, đẹp hơn, và dễ thương hơn nhiều.
Có nhiều người ở ngoài đời thường, ở ngoài xã hội thì ra vẻ rất anh hùng, nhưng bước vào nhà tù cộng sản (dù chưa khắc nghiệt, hắc ám như A20) đã phải giơ tay phân bua với cai tù, với bè bạn là “Tôi, Nguyễn Văn A ngày xưa đã chết, bây giờ là một con người mới…”, hoặc luồn lọt, làm ăng ten, chỉ điểm cho bọn cai tù đến độ đồng đội, đồng nghiệp của họ đã phải thốt lên “Phạm Văn B đã chết.” Trần Danh San không chết dễ dàng như vậy. Giữa không khí ngột ngạt của một nhà tù hắc ắm, khắc nghiệt như A20, anh đã cùng Vũ Văn Ánh, Nguyễn Chí Thiệp khởi xướng tờ báo Hợp Đoàn. Anh đã chấp nhận đánh đu với tử thần để vừa cung cấp cho mọi người những thông tin cập nhật, những bài viết giúp họ mở mang kiến thức, kiên định lập trường, vừa giữ vai trò điều hợp một số hoạt động đấu tranh ở trong trại.
Sau khi Vũ Văn Ánh bị cùm trong xà lim rồi bị tuyên phạt “biệt giam vô thời hạn”, tôi được chỉ định làm “thư ký tòa soạn” cho tờ báo. Nhiệm vụ của tôi là tuyển chọn bài, sửa chữa chút đỉnh chính tả, văn phạm rồi giao cho Hải Bầu, Ngọc Đen lên khuôn; sau đó tôi kiểm soát lại lần cuối và phát hành. Trần Danh San kín đáo giao cho tôi một bài viết rất hay: Vì Sao Chúng Ta Tranh Đấu. Tôi đã giao cho Hải Bầu, Ngọc Đen đăng trong Hợp Đoàn số 4. Bài viết được nhiều anh em tù, đặc biệt là những anh em tù chính trị có án, ưa thích.

A 20 Tăng Ngọc Hiếu và A 20 Trần Danh San.
Tết Nhâm Tuất 1982, tôi đã nghe lời 3 thằng điên: Vũ Mạnh Dũng, Hải Bầu, Ngọc Đen chơi 5 buổi văn nghệ chống bạo quyền cộng sản, sau này được anh em gọi là Những Tiếng Hát Bừng Sáng A20. Ngay khi buổi chơi đầu tiên ở nhà 3 kết thúc, anh San đã chờ mọi người giải tán hết, đến trước mặt tôi nói “Anh Nhì! Tôi xin phép anh được dành trọn một chương trong quyển sách mới của tôi viết về những gì các anh đã làm ngày hôm nay.” Rồi rất tình cảm, anh nhỏ nhẹ nói tiếp “Phải cho thế hệ sau biết để các em, các cháu có thêm nghị lực, dũng khí đi tiếp con đường chúng ta đi.” Lời khích lệ của anh đã cho chúng tôi thêm can đảm để chơi 4 buổi văn nghệ kế tiếp. Năm 2011, gặp lại anh ở Cali, tôi vừa cười vừa nói “Anh San! Anh còn thiếu bọn tôi một món nợ đó nghe!” Anh vỗ vai tôi cười cười nói lảng sang chuyện khác.
Nói đòi nợ là nói vui với anh vậy thôi. Cũng từng chơi cái trò viết lách, lẽ nào tôi không biết văn chương thì phải có dịp thuận tiện, phải có hứng mới viết được. Anh chẳng phải nợ nần gì với bọn tôi cả. Với “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Những Người Việt Nam Khốn Cùng”, với tờ báo Hợp Đoàn ở A20 Xuân Phước, với “Vì Sao Chúng Ta Tranh Đấu”, với giọng nói sang sảng, lối kể chuyện gọn gàng, mạch lạc, nụ cười tươi, và với thái độ khiêm tốn, nhã nhặn, vui vẻ với mọi người của anh, chúng tôi, những người tù A20 Xuân Phước, và cả lớp trẻ sau này ở trong nước và hải ngoại, đều thiếu anh một món nợ. Món nợ ấy chỉ có thể trả bằng việc tiếp tục con đường của anh, dấn thân đấu tranh đòi tự do, dân chủ, nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.
Có lẽ tôi sẽ không có mặt ở Cali để đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Xin mượn mấy lời chân tình, xem như một nén nhang, để vĩnh biệt một người bạn, một người anh, một anh hùng với tất cả những ý nghĩa cao đẹp của nó.
Galveston ngày 13 tháng 11 năm 2013

Phạm Đức Nhì