Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Chào anh lần cuối !

Chào anh lần cuối !

Khi phải nói hai chữ Giã Biệt hay mạnh mẽ hơn Vĩnh Biệt thì qủa thật phải đau lòng nhưng chúng ta phải chấp nhận vì sự ra đi của con người không do con người quyết định theo lệ thường. Tuy rằng không có cái may mắn được sống gần anh San để hiểu anh, học hỏi từ anh, dù chỉ được gặp anh trong phút chốc tôi vẫn có ấn tuợng tốt đẹp về anh qua cử chỉ và từ ngữ anh dùng.
Hôm qua ngày 11 tháng 11 là ngày Veteran Day của Hoa Kỳ đang xem những thước phim của các cựu quân nhân Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam quađài H.2. Khi nghe những phân tích nhận định của chính những người cựu quân nhân này kể lại tôi vừa buốn vừa tức giận khi nhớ lại hoàn cảnh đau thương của đất nước mình. Mọi việc của đất nước đã vượt khỏi tầm tay của người Việt chúng ta. Chính vì vậy mà ngày 30 tháng 4 năm 1975 phải đến để rồi thương sao những người quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh trên đất nước ta và cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng đặt chân đến quê hương chúng ta với hơn 2 triệu rưỡi lượt người. Với quân lực VNCH có biết bao chiến sĩ đã hy sinh và biết bao người tàn phế nhưng cuối cùng người Việt chúng ta nói chung đã nhận lấy sự đau thương như ngày nay. Tuy rằng trên thực tế quê hương chúng ta không còn chiến tranh nhưng hậu quả vẫn kéo dài đến tận ngày nay và sẽ còn tiếp diễn ởtương lai. Chúng ta những thành phần đã từng bị tù tội, ngược đãi trong thời gian dài và vẫn còn kéo dài đến hiện tại.
Anh Trần Danh San sau bao năm trời vẫn tiếp tục chiến đấu dù trên tay anh không súng đạn nhưng những việc làm, lời nói và những bài viết của anh vẫn là những viên đạn giá trị đẻ gởi cho chế độ Cộng Sản và là phương tiện để đòi quyền sống cho dân tộc. Anh không phải là người cầm súng như chúng tôi nhưng anh đã hành xử quyền của một công dân nước Việt để rồi cùng chung số phận như chúng tôi.

Thưa anh,
Được tin anh ra đi, chúng tôi thật bất ngờ và xúc động. Anh đã miệt mài đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền trong suốt cuộc đời của anh. Anh đã tự nhận lấy trách nhiệm của một người công dân để hiên ngang lên tiếng giữa lòng địch vào ngày 23 tháng 4 năm 1977 để rồi anh chấp nhận vào tù ra khám. Nhiệm vụ đấu tranh cho nhân quyền là một nhiệm vụ quá nặng nề, khó khăn nhưng cũng rất vinh hạnh mà tổ quốc và nhân dân kỳ vọng, anh cũng như chúng tôi đưa vai gánh vác nhưng tiếc thay sự kỳ vọng đó chúng ta đã không hoàn thành. Anh đã làm hết khả năng của anh, và nhiệm vụ của anh đã hoàn thành, anh giờ đây ra đi, chúng tôi còn lại dù tuổi đời chồng chất chúng tôi cũng sẽ tiếp tục công việc đang làm.

Thưa anh,
Với thời gian chắc chắn anh em ta sẽ có một cuộc Hội Ngộ cuối cùng và toàn diện. Hẹn anh ngày ấy.
Cùng với các niên trưởng và bạn bè, thằng em xin đứng nghiêm chào anh lần cuối.

A.20 Đạo Trần
Columbus, Ohio.


tiếng hò khoan đã tắt

 Tưởng niệm
LS Trần Danh San,
           tiếng hò khoan đã tắt 
  
Phan Nhật Nam 
Phan Nhật Nam


Ngày 11 tháng 11 năm 1960, ngày lực lượng Nhảy Dù thực hiện cuộc binh biến báo hiệu cơn sóng gió của chiến cuộc và chính cuộc Miền Nam. Cũng là ngày gã thiếu niên 17 tuổi hiểu rõ Nỗi Đau và Sự Chết có thật dâng lên ngập ngập trong thân, trong lòng. Cảm giác, phản ứng nôn nao sinh tâm lý làm nghẹn đường thở, rì rầm âm động nơi trái tim với câu hỏi.. Mẹ bây giờ ở đâu? Mẹ sống, chết ra làm sao? Em đang nơi nào? Làm sao để sống? Ngày 11 tháng 11 năm nay, 2013, Lễ Cựu Chiến Binh ở Mỹ, người lính không vũ khí nặng lòng, mệt nhọc, buông xuôi... Chứng kiến Người Bạn ra đi sau những ngày, giờ chạm dần vào cánh cửa vô hình hiển hiện của Sự Chết. Trần Danh San ra đi thanh thản sau khi đã sống đủ một đời kiệt liệt.


Hai Luật Sư Trần Danh San (trái) và Triệu Bá Thiệp đang chào mừng thân hữu cựu tù Phan Ðăng Lưu trong buổi kỷ niệm ngày ra “Tuyên ngôn Nhân quyền của những người Việt Nam khốn cùng.” 

Tôi với anh không phải là bạn đồng trang lứa. Anh lớn tuổi thuộc lớp niên trưởng nếu ở trong quân ngũ, của sinh hoạt văn hóa, chính trị, xã hội Sài Gòn, Miền Nam  trước 1975. Anh là luật sư Tòa Thượng Thẫm Huế, con rể cụ Vũ Đăng Dung, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Sài Gòn, giai cấp xã hội với chuyên môn nghề nghiệp thuộc thành phần lãnh đạo ở miền Nam, cũng là của hệ thống cầm quyền thuộc các chế độ dân chủ pháp trị trên toàn thế giới. Tôi chỉ là sĩ quan cấp úy của một binh chủng thuần thành tác chiến. Nhưng chúng tôi đã nên thân thiết qua một liên hệ bằng hữu chặt chẽ. Bởi cả hai cùng chung trận tuyến quyết liệt không chấp nhận người, chủ nghĩa, chế độ cộng sản. Cho dẫu hơn ai hết, tôi và anh đồng hiểu rõ chỉ là hai cá nhân hạn chế bởi những điều kiện khách quan lẫn chủ quan, vật chất và tinh thần cần thiết cho cuộc chiến đấu không khoan nhượng và không cân sức nầy. Cuộc chiến đã bị thất bại cụ thể với Ngày 30 Tháng 4 năm 1975. Nhưng chúng tôi không hề thất vọng và tiếp tục phần đương cự trong những hoàn cảnh, điều kiện riêng.

Tôi không hề ngoa ngôn, xưng tụng vô cớ. Xin minh chứng sức mạnh tinh thần, bản lãnh kiên cường của một Con Người – Điển hình của Kẻ Sĩ Việt Nam              

Năm 1977, Sài Gòn, miền Nam đang trong gọng kìm gay gắt của chế độ cộng sản theo khuôn mẫu trại lính của Liên Xô thời Stalin. Đúng ra là hình thái trại tập trung khổng lồ nối dài từ miền Bắc theo khuôn mẫu xã hội xã hội chủ nghĩa của tổng bí thư Lê Duẩn. Trại tập trung bao gồm toàn bộ quân dân cán chính VNCH và gia đình, cùng tất cả thị dân miền Nam. Khối đông người được nói rõ ra là bị xếp vào hạng thứ 14 của 15 giai cấp xã hội theo cách đánh giá từ Bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội. Hạng thứ 15 là thành phần tội phạm hình sự gia trọng bị chung thân khổ sai, hoặc chờ thi hành án tử hình của một loại tòa án nhân dân do những cán bộ cộng sản từ bưng biền miền Nam, từ miền Bắc vào ngồi ghế chánh án. 

Sau sự kiện giới trí thức Tiệp Khắc ban hành Hiến Chương 77 chống lại nhà cầm quyền Cộng Sản Tiệp Khắc, tại Sài Gòn, trong vòng đai lửa của chế độ mới, hai Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp không thể im lặng. Cả hai đồng hoàn thành văn bản "Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng". Hai anh và nhóm trí thức bất khuất gồm hơn mười luật sư, giáo sư, kỹ sư trước 1975 hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngã tiến theo hai đường tập trung trước Nhà Thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 Tháng 4, 1977. Trần Danh San dùng cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ đọc lên bản ‘Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng’ đến cùng đồng bào Sài Gòn, cũng của miền Nam lẫn miền Bắc đang mong chờ lần phục sinh từ bãi lầy cộng sản. Anh cố đọc lần thứ hai, nhưng mới được một nửa thì công an ập tới. Hai Luật Sư San và Thiệp không bị bắt riêng rẽ, hai anh có những người bạn chiến đấu cùng chịu chung cảnh ngộ gồm các Luật Sư, Giáo Sư Vũ Đăng Dung, Nguyễn Hữu Giao, Nguyễn Quý Anh, Vũ Hùng Cương, Trần Nhật Tân, Phạm Biểu Tâm, Huỳnh Thành Vị, Nguyễn Hữu Doãn, Hà Quốc Trung và Kiến Trúc Sư Nguyễn Văn Điệp. Nhóm trí thức bị giam giữ nhiều năm tại các nhà giam khắc nghiệt nhất của miền Nam. Trại Phan Đăng Lưu,Sài gòn;Trại Z30A,Xuân Lộc; Trại A20, Xuân Phước, Phú Khánh. Trong tù, Kiến Trúc Sư Nguyễn Văn Điệp, Giáo Sư Hà Quốc Trung đồng tự sát; Luật Sư Niên Trưởng Vũ Đăng Dung, nhạc phụ của Trần Danh San lúc ấy đã qua tuổi 60.

Cần phải nhắc lại những chi tiết. Chưa tới ba-mươi tuổi, Trần Danh San đã là một trong những luật sư trẻ đã tham gia chương trình thử nghiệm đầu tiên thành lập chính quyền dân sự tại tỉnh Quảng Nam do ông Nguyễn Hữu Chi vừa học ở Mỹ về được cử nhiệm làm tỉnh trưởng năm 1966. Nhưng cuối cùng chương trình này cũng không thành công vì sức ép của chính quyền quân sự vào thời điểm ấy. Anh trở lại nghề luật nhưng mang theo một kiến thức, kinh nghiệm sâu xa về nền chính trị rối ren tại VNCH, sự hiểu biết tường tận về những nguyên nhân gây nên tranh chấp trong hàng ngũ chính quyền VNCH và quân đội. Cuộc di tản, rút khỏi miền Trung, sụp vỡ Sài Gòn tháng 3, tháng 4 năm 1975 với những chi tiết và diễn biến cho tới những ngày cuối đời, trên giường bệnh, cận tử sinh vẫn là một ám ảnh gây nên mối phẫn hận.

Mối phẫn hận tăng thêm cường độ và tính cách mới sau 1975 khiến anh và những người bạn chiến đấu không thể im lặng trước tình cảnh khốn cùng của cả dân tộc. Trần Danh San lên tiếng nói và trả giá cho quyết định của mình với ý thức không lay chuyển. Trong trại giam Phan Đăng Lưu anh nhận đòn tứ trụ với sức chịu đựng tưởng chừng như không thực: Với thân hình cao không quá “một thước-sáu” nhận đòn đánh hội đồng từ bốn tên lực lưỡng chuyên nghiệp tra khảo người. Sau những trận đòn chạm tới điểm chết, sau những tháng kiên giam nơi hầm tối của anh, viên cán bộ trưởng trại Phan Đăng Lưu có câu hỏi: Anh có ngừng chống đối không? Trần Danh San trả lời chắc chắn: Chống đối là điều tất nhiên! Câu trả lời được nhiều bạn tù nơi Phan Đăng Lưu năm ấy hiện nay đang cư trú tại vùng Nam Cali nghe rõ.

Chuyển trại từ Phan Đăng Lưu ra Z30A,Xuân Lộc rồi sau đó A20, Xuân Phước, Người Tù-Kẻ Sĩ Trần Danh San vào ngay “Chuồng Cọp Số 5” tức khu biệt giam phân trại E của A-20. Tại đây, Trần Danh San, Vũ Ánh, Thượng Tọa Thiện Minh, Võ Sư Lê Sáng... đã bị cùm liên tiếp trong nhiều năm. Không phải bị cùm thường mà “cùm Omega” bằng sắt với số vòng cùm nhỏ nhất phải dùng búa mới đóng vào được cổ chân người tù. Vũ Ánh đã nghe thấy tiếng búa của cai ngục đóng vòng cùm số 16 vào chân Trần Danh San đáng lẽ phải mang vòng cùm số 18. Trần Danh San đã không một tiếng kêu. Anh cũng không hề yêu cầu đổi vòng cùm.

Ở A-20, San thường nói với Vũ Ánh, chung một đội tù sau khi ra khỏi hầm kiên giam: “Đừng bao giờ để cho cái đầu bị tê liệt vì cái bụng và cứ coi mình là một xác chết chưa chôn thì không còn sợ hãi gì cả”. Anh giữ vững nguyên tắc nầy cho đến ngày hôm nay trên giường bệnh lúc chạm biên giới tử/sinh. Nguyên tắc bức thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, thân xác. Anh thường hoạt kê hóa câu hát ”... Khoan khoan hò ơi... Thuyền... đã đến bến rồi...” để chỉ một sự đã rồi của tất cả các tình huống.

Vâng, thưa Anh, Luật Sư Trần Danh San, Anh đã đến bến từ một thuở rất lâu. Anh đến trước mọi người trong những lúc khắc nghiệt nhất. Anh đến và đi như một thản nhiên.

Phan Nhật Nam
xin các bạn vào google (gõ LS Trần Văn San) để đọc thêm về anh



A 20 Trần Mạnh Tôn
NT. A 20 Nhan Hữu Hậu và A 20 Vũ Lonh Sơn Hải












A 20 Phùng Văn Triển










A 20 Vũ Văn Ánh










Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

“THÁC LÀ THỂ PHÁCH, CÒN LÀ TINH ANH”

                           









        “THÁC LÀ THỂ PHÁCH, CÒN LÀ TINH ANH”

Luật sư Trần Danh San đã ra đi, nhưng thanh danh luật sư Trần Danh San  đời đời lưu lại trong lịch sử.
*Luật sư Trần Danh San, người đầu tiên viết nên bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền” của những người Việt Nam khốn cùng.” (The Declaration of Human Rights of Disgraceful Vietnameses).
*Luật sư Trần Danh San, cá nhân bảo vệ nhân quyền, chống lại bạo quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1977, nguy hiểm không khác chi trường hợp “David nhỏ bé có mưu lược đánh chết anh khổng lồ Goliath.”
Quả thật, luật sư Trần Danh San xứng đáng được ví như David. Luật sư đã hiên ngang phổ biến bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền trong ba trường hợp “thập tử nhất sinh mà không một người Việt nam nào khác nghĩ đến.
1. Trước Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn
Ngày 23 tháng 4 năm 1977, luật sư Trần Danh San đọc bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Liền sau đó, luật sư Trần Danh San và các bạn trong Ủy Ban Nhân Quyền bị bắt giam giữ trong hai nhà tù:
Phan Đăng Lưu từ 23-4-1977 đến 15-5-1978
Chí Hòa từ 15-5-1978 đến 10-8-1978
2. Trong trại tù Gia Rây Xuân Lộc, Z. 30 A
Từ ngày 10-8-1978 đến 5-9-1979, bất chấp nguy hiểm, Luật Sư Trần Danh San tiếp tục phổ biến bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và văn bản “Tại Sao Chúng Tôi Phải Tranh Đấu” (Why Should We Struggle) bằng cách tự tay viết lại.
Hai văn bản nầy lần lượt chuyền tay cho nhau đọc, và học. Đặc biệt, bạn Võ Phước Thọ là một trong những bạn trẻ đã thuộc lòng hai văn bản nầy, cả bản Việt và Anh ngữ.  
Cũng vì ảnh hưởng của hai bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Tại Sao Chúng Tôi Phải Tranh Đấu, ngày 5-9-1979, luật sư Trần Danh San và một số bạn hữu bị chuyển ra miền Trung.
3. Trong trại Xuân Phước Phú Khánh, A. 20
Tại đây, luật sư Trần Danh Sanh, cùng các bạn Vũ văn Ánh, Nguyễn Chí Thiệp, và nhiều bạn trẻ khác như Phạm Đức Nhì, Ngọc Đen, Hải Bầu... chủ trương  xuất bản tập “Hợp Đoàn.”
Thêm một lần nữa hai văn bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Vì Sao Chúng Tôi Phải Tranh Đấu được ghi liên tiếp ghi lại trong các tập “Hợp Đoàn.”
4.- Tại Westminster, California, U.S.A.
Ngày 11-11-2013, luật sư Trần Danh San qua đời. Nhưng kỳ diệu thay! Lý tưởng Nhân Quyền và tinh thầnh Tranh Đấu của luật sư Trần Danh San  bừng sáng lên trong lòng tất các bạn ở Sài gòn, ở Gia Rây Xuân Lộc, và Xuân Phước Phú Khánh.
Luật sư Trần Danh San! Bạn biết hay không biết? Tôi tin là bạn đã biết!
“Một Trần Danh San ra đi! Trăm ngàn bạn Trần Danh San ở khắp năm châu còn lại, và đang noi theo gương bạn đấu tranh bảo vệ Nhân Quyền.

Bạn Trần Danh San! Bạn với tôi nhiều năm tháng quan hệ với nhau như anh em một nhà!  Tôi có biết, nhưng bạn biết hơn tôi, và bạn biết trước tôi!
Bạn biết trước tôi! “Nhân Quyền” là trọng tâm kinh-tế-chính-trị của Liên Hiệp Quốc, của 193 quốc gia hội viên, và đặc biệt của Hoa kỳ!
Bạn bình tỉnh hơn tôi! Bạn biết: Thay đổi chế độ độc tài Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là hội viên của Liên Hiệp Quốc không phải là chuyện ngắn hạn. Bạn có kế hoạch mở rộng “như vết dầu loang.” Từ Nhà Thờ Đức Bà tại Sài gòn, đến Gia Rây Xuân Lộc, đến Xuân Phước Phú Khánh, từ Việt nam đến Hoa kỳ, và rộng khắp năm châu.
Đặc biệt nhất là bạn biết trước, và biết đúng!
Bạn biết rằng: “Các bạn của bạn sẽ không bao giờ quên bạn!”

Vinh danh thay luật sư Trần Danh San! Thác là thể phách, còn là tinh anh!
Luật sư Trần Danh San! Bạn ra đi, nhưng Tinh Thần của bạn vẫn tồn tại trong Tinh Thần của các bạn hữu, của tôi, và của mọi người yêu chuộng nhân quyền hôm nay và mãi mãi về sau.

                                                                   Tăng Ngọc Hiếu


Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

NÉN NHANG CHO MỘT ANH HÙNG

NÉN  NHANG  CHO  MỘT  ANH  HÙNG






Giữa Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, do vị trí chỗ nằm ở nhà 3 lúc mới đến phân trại E, A20 Xuân Phước, tôi gần và thân Vũ Văn Ánh hơn. Với Vũ Văn Ánh, tôi có thể đặt câu hỏi trực tiếp về những điều mình muốn biết và được anh trả lời đầy đủ, cặn kẽ. Với Trần Danh San, tôi phải rình những lúc anh trò chuyện với mọi người để len lén đến ngồi nghe ké. Nguyễn Hữu Hồng, một sĩ quan trẻ và cũng hay ngồi nghe ké như tôi, có lần phát biểu:
       “Tay này đúng là trên thông thiên văn, duới thông địa lý, cái con mẹ gì hắn cũng biết. Đáng nể thật.” Nhờ những lần nghe ké như vậy sự hiểu biết của tôi được mở mang rất nhiều.
Nhưng điều làm tôi khoái Trần Danh San là lý do anh bước vào tù. Lúc ấy, ngoài những sĩ quan trình diện cải tạo như tôi, còn rất nhiều người khác bị bắt vì đã lãnh đạo hoặc tham gia các tổ chức chống lại bạo quyền cộng sản. Bấy giờ họ đã vào tù. Nhưng trước đó, khi nhập cuộc với hoài bão đòi lại quê hương, đất nước, giành lại tự do cho dân tộc, ai chẳng ít nhiều hy vọng, ước mơ có ngày công thành danh toại.
       “Ai đã từng chiến đấu, đã hy sinh
       Mà chẳng có vì một chút mình trong đó.”
Việc Kinh Kha nhận lời Thái Tử Đan đi ám sát Tần Thủy Hoàng “diệt hôn quân, trừ bạo chúa cứu muôn triệu dân lành” rõ ràng là một hành vi anh hùng, vì đại nghĩa. Chuyến đi qua sông Dịch của ông lành ít dữ nhiều; canh bạc 8, 9 phần thua, chỉ có 1, 2 phần thắng. Nhưng 1, 2 phần ấy vẫn là có hy vọng; hy vọng giết được Tần Thủy Hoàng để thỏa mãn mộng công hầu khanh tuớng.
Trần Danh San thì khác. Sau khi cùng luật sư Triệu Bá Thiệp soạn thảo bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Những Người Việt Nam Khốn Cùng”, cả hai đã hẹn nhau đến Vương Cung Thánh Đường trịnh trọng tuyên bố trước bàng dân thiên hạ rồi tươi cười bước lên xe công an, đến số 4 Phan Đăng Lưu…ngồi tù. Kinh Kha còn có 1, 2 phần hy vọng chứ Trần Danh San thì chuyện vào tù là chắc như đinh đóng cột;10 phần thì vào tù hết cả 11. Kinh Kha và Trần Danh San đều đáng gọi là anh hùng; tuy cái giá mà Trần Danh San phải trả để được gọi là anh hùng nhẹ hơn, nhưng cái anh hùng của Trần Danh San lãng mạn hơn, đẹp hơn, và dễ thương hơn nhiều.
Có nhiều người ở ngoài đời thường, ở ngoài xã hội thì ra vẻ rất anh hùng, nhưng bước vào nhà tù cộng sản (dù chưa khắc nghiệt, hắc ám như A20) đã phải giơ tay phân bua với cai tù, với bè bạn là “Tôi, Nguyễn Văn A ngày xưa đã chết, bây giờ là một con người mới…”, hoặc luồn lọt, làm ăng ten, chỉ điểm cho bọn cai tù đến độ đồng đội, đồng nghiệp của họ đã phải thốt lên “Phạm Văn B đã chết.” Trần Danh San không chết dễ dàng như vậy. Giữa không khí ngột ngạt của một nhà tù hắc ắm, khắc nghiệt như A20, anh đã cùng Vũ Văn Ánh, Nguyễn Chí Thiệp khởi xướng tờ báo Hợp Đoàn. Anh đã chấp nhận đánh đu với tử thần để vừa cung cấp cho mọi người những thông tin cập nhật, những bài viết giúp họ mở mang kiến thức, kiên định lập trường, vừa giữ vai trò điều hợp một số hoạt động đấu tranh ở trong trại.
Sau khi Vũ Văn Ánh bị cùm trong xà lim rồi bị tuyên phạt “biệt giam vô thời hạn”, tôi được chỉ định làm “thư ký tòa soạn” cho tờ báo. Nhiệm vụ của tôi là tuyển chọn bài, sửa chữa chút đỉnh chính tả, văn phạm rồi giao cho Hải Bầu, Ngọc Đen lên khuôn; sau đó tôi kiểm soát lại lần cuối và phát hành. Trần Danh San kín đáo giao cho tôi một bài viết rất hay: Vì Sao Chúng Ta Tranh Đấu. Tôi đã giao cho Hải Bầu, Ngọc Đen đăng trong Hợp Đoàn số 4. Bài viết được nhiều anh em tù, đặc biệt là những anh em tù chính trị có án, ưa thích.

A 20 Tăng Ngọc Hiếu và A 20 Trần Danh San.
Tết Nhâm Tuất 1982, tôi đã nghe lời 3 thằng điên: Vũ Mạnh Dũng, Hải Bầu, Ngọc Đen chơi 5 buổi văn nghệ chống bạo quyền cộng sản, sau này được anh em gọi là Những Tiếng Hát Bừng Sáng A20. Ngay khi buổi chơi đầu tiên ở nhà 3 kết thúc, anh San đã chờ mọi người giải tán hết, đến trước mặt tôi nói “Anh Nhì! Tôi xin phép anh được dành trọn một chương trong quyển sách mới của tôi viết về những gì các anh đã làm ngày hôm nay.” Rồi rất tình cảm, anh nhỏ nhẹ nói tiếp “Phải cho thế hệ sau biết để các em, các cháu có thêm nghị lực, dũng khí đi tiếp con đường chúng ta đi.” Lời khích lệ của anh đã cho chúng tôi thêm can đảm để chơi 4 buổi văn nghệ kế tiếp. Năm 2011, gặp lại anh ở Cali, tôi vừa cười vừa nói “Anh San! Anh còn thiếu bọn tôi một món nợ đó nghe!” Anh vỗ vai tôi cười cười nói lảng sang chuyện khác.
Nói đòi nợ là nói vui với anh vậy thôi. Cũng từng chơi cái trò viết lách, lẽ nào tôi không biết văn chương thì phải có dịp thuận tiện, phải có hứng mới viết được. Anh chẳng phải nợ nần gì với bọn tôi cả. Với “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Cho Những Người Việt Nam Khốn Cùng”, với tờ báo Hợp Đoàn ở A20 Xuân Phước, với “Vì Sao Chúng Ta Tranh Đấu”, với giọng nói sang sảng, lối kể chuyện gọn gàng, mạch lạc, nụ cười tươi, và với thái độ khiêm tốn, nhã nhặn, vui vẻ với mọi người của anh, chúng tôi, những người tù A20 Xuân Phước, và cả lớp trẻ sau này ở trong nước và hải ngoại, đều thiếu anh một món nợ. Món nợ ấy chỉ có thể trả bằng việc tiếp tục con đường của anh, dấn thân đấu tranh đòi tự do, dân chủ, nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.
Có lẽ tôi sẽ không có mặt ở Cali để đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Xin mượn mấy lời chân tình, xem như một nén nhang, để vĩnh biệt một người bạn, một người anh, một anh hùng với tất cả những ý nghĩa cao đẹp của nó.
Galveston ngày 13 tháng 11 năm 2013

Phạm Đức Nhì



Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Bài điếu văn cho Trần Danh San một A-20 vừa ra đi vĩnh viễn!

Bài điếu văn cho Trần Danh San một A-20 vừa ra đi vĩnh viễn!





Vũ Ánh
San thân,
Dù đã đoán trước được ngày giờ này đến với bạn sẽ không xa cái ngày ở tôi và Vũ Hồng Cương đến thăm và ở lại tán gẫu với bạn cả buổi sáng tại bệnh viện. Buổi sáng hôm đó, tôi đã nghe bạn nói với người bác sĩ điều trị: “Dù muốn dù không tôi cũng sẽ ra đi, đừng lo lắng thái quá cho tôi”. Trần Danh San là như thế ! Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng không phải chỉ ở vào thời điểm bạn đã nằm trên giường bệnh vì ung thư phổi mà ngay từ thời gian luôn luôn chúng ta phải đối mặt trực diện với kẻ thù từ những năm đầu của biến cố 30-4-1975. Tôi nhớ cái ngày chúng tháo cùm mở cửa xà lim để chuyển chúng ta vào khu chuồng cọp “sang trọng” hơn ở trại B, đôi cổ chân của bạn sưng lên như chân voi, cái dấu cùm 16 lún xuống thành hai cái vòng. Chúng ta đã kiệt sức và phải bám vào nhau để lết ra gốc hàng dừa phía sau khu biệt giam chờ lên xe để chuyển trại. ( Khu biệt giam hay khu chuồng cọp phân trại B của A-20 Xuân Phước sang trọng hơn chỉ là mới hơn rộng hơn về bệ nằm nhưng chế độ ăn uống thì tệ hại hơn, nước uống được cấp phát dồi dào hơn nhưng nước muối mặn hơn nên dễ bị phù hơn. Tôi và Trần Danh San bị phù rất nặng đến mức cứ ngủ thiếp đi khi đang nói chuyện. Nếu ở ngoài các bạn bè tâm phục không liều chết tổ chức cho một người liều chết leo qua bức tường cao 4 thước có kẽm gai trước họng thượng liên của vọng gác tiếp tế thuốc vitamin B-1 cho chúng ta, chắc chúng ta cũng không thể sống nổi)

Tôi nhớ trại trưởng phân trại E của A-20, Lê Đồng Vũ mà chúng ta gọi là Tư Nhừ vì hắn mang lon thiếu tá công an, giọng lúc nào cũng nhừa nhựa như thằng say rượu, không biết nó sẽ rút cây K-54 ra bắn mình lúc nào, hỏi khích bạn: “Thế nào, anh San còn bẻ gậy chống trời nữa không”. Trần Danh San đáp tỉnh bơ: “Tất nhiên, cán bộ”. Bẻ gậy chống trời là từ ngữ đầy tính tự kiêu nhằm diễu cợt cái thế yếu của những người thua trận như chúng tôi và cái thế “trời” của những kẻ chiến thắng. Tư Nhừ hay Lê Văn “Nhừ” trả đũa một cách mỉa mai: “Hai anh trông còn khỏe lắm. Vào trong B tiếp tục tẩm bổ bằng muối và nghỉ mát để có sức bẻ gậy chống trời !”. Chữ “trời” hắn kéo dài ra mang hơi hám của một lưỡi dao có thể cắt đứt động mạch chủ của chúng ta bất cứ lúc nào.




Bạn ạ, trưa Thứ Hai vừa rồi, Tăng Ngọc Hiếu từ Minnesota gọi điện thoại cho tôi báo tin bạn không còn ở với bọn tôi trên dương thế nữa. Tôi đã biết tin này trước anh Hiếu, nhưng cũng rất xúc động vì giọng nói như khóc của anh, một người bạn tù lúc nào cũng thuần hậu và quảng đại với tất cả các anh em. Bạn có biết Hiếu nói với tôi những lời như thế nào không? Anh ấy nói: “Ông ơi thằng San nó là một tay chơi trong tranh đấu. Hình ảnh của nó rất lớn mà chính nó không bao giờ chú ý đến”. Chữ nghĩa tay chơi trong tranh đấu kể ra thì cũng khó diễn đạt. Không biết riêng bạn thì bạn nghĩ như thế nào và cũng chẳng đứa nào trong chúng tôi nhớ ra để hỏi bạn khi còn trên trần thế, nhưng cá nhân, tôi nghĩ một “tay chơi trong tranh đấu” phải là một người đầy bản lãnh, đông bạn bè tâm phục chung quanh, biết nhận lầm lỗi để sửa chữa, biết  thỏa hiệp để lùi một tiến hai, biết tổ chức và duy trì tổ chức có kỷ luật, thẳng tay loại bỏ những thành viên vô kỷ luật trong tổ chức và có đủ khả năng thương thuyết nói chuyện với những nhóm khác quan điểm để làm việc chung. Tăng Ngọc Hiếu, Vũ Hồng Cương cùng nhiều anh em khi nghe tin bạn vĩnh viễn ra đi đã gọi cho tôi và cho rằng bạn là người có đủ những đức tính này, là người đi tiên phong và can đảm nêu vấn đề nhân quyền ra trước bọn người đang điên cuồng vì chiến thắng, sẵn sàng bắn giết bất cứ ai đi ngược lại suy nghĩ của họ chứ không phải trước một chính quyền chuyên chính đã bớt chuyên chính hơn như chính quyền Việt Nam ngày nay sau khi Hà Nội đã nhận những cái tát đích đáng của dư luận thế giới bên ngoài.

Nhưng bọn tôi vẫn nghĩ rằng cái buổi sáng ở bệnh viện Garden Grove cũng là buổi không hẹn trước mà nên. Hôm ấy tôi thấy bạn tỉnh táo lắm, đi lại được, đã ngồi dậy được, bộ nhớ của bạn “on” trở lại. Bạn nói đủ thứ chuyện quá khứ, hiện tại và cả dự phóng về tương lai. Bạn nhớ tên từng khuôn mặt, tính tình của nhóm anh em tương đối hiểu nhau ở trại A-20, từ Tăng Ngọc Hiếu, Hiếu “đầu bạc”, Ngọc “đen”, Nhì “chính huấn”, Hải “bầu”, Hải “cà”, Ngô Quốc Việt “pilot”, Phụ “dù”, Hai, Mỹ, Tường “dù”, Sơn Hồng Đức, Trần Vinh, Cái Trọng Ty, Võ Long Sơn Hải, Mai Đức Phi cho tới Vũ Hồng Cương, Lương Văn Ngọ, Bùi Đạt Trung tức Trung “điên” (San còn phán: Lão ấy chả điên chút nào), Vũ Đức Nghiêm, Khuất Duy Trác, Võ sư chưởng môn Vovinam Lê Sáng, ông Châu Sáng Thế (Hồi giáo), các linh mục Nguyễn Văn Vàng, Phan Văn Trọng, Nguyễn Luân, Thượng tọa Thích Huệ Đăng, Quách Văn Trung, Trần Công Linh (BĐQ), Tài “sún”, Nhan Hữu Hậu (tùy viên của nhiều đời thủ tướng VNCH), Trịnh Tùng, Tư “rè” Nguyễn Ngọc Tiên, Lê Thái Chân, Tống Phước Hiến, Lê Quang Minh, Khúc Thừa Văn (cựu DB/VNCH), cụ Nguyễn Duy Giá (cựu Tổng Đốc), ông Võ Văn Hải (chánh văn phòng của Tổng Thống Diệm), Trần Quí Phong, Khúc Thừa Văn (cựu DB/VNCH), Nguyễn Chí Thiệp, Phạm Trần Anh và còn rất nhiều người khác. Không hỏi thì thôi nhưng nếu hỏi đến một anh em nào, bạn nói ra vanh vách.




San thân,

Tôi đã đến thăm nhiều đồng đội của chúng ta lần cuối cùng trước khi họ trở thành người thiên cổ. Cuộc viếng thăm nào trong hoàn cảnh ấy cũng buồn và có những giọt lệ của tuổi già. Chẳng hạn như lần tôi và Cương thăm bạn ở khu săn sóc đặc biệt trong khi bạn chờ đợi kết quả thử nghiệm cuối cùng ở một dưỡng đường trên đường College. Lần ấy, chỉ có bạn là vui, chiếc máy cassette trong bạn hoạt động với công xuất tối đa, nhưng chúng tôi thì gần như cạn công xuất. Tuy nhiên, khi tình trạng của bạn được chính thức coi như hết thuốc chữa và được chuyển về bệnh viện Garden Grove, cuộc họp mặt tay ba giữa Cương, tôi và bạn trở thành cuộc gặp mặt nhau lần cuối cùng. Bạn nhắc tới Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền một tác phẩm tiên phong soạn chung với đồng nghiệp và cũng là bạn thân của mình là luật sư Triệu Bá Thiệp mang ra đọc trước nhà thờ Đức Bà ngày 23-4-1977 và bản tuyên ngôn này đã được bạn viết lại trong số báo Hợp Đoàn đầu tiên chúng ta phổ biến ngầm trong trại cải tạo A-20 Xuân Phước. Trong cuộc gặp ấy, tôi nhắc với bạn rằng không ai tránh được những yếu điểm của bản thân và bạn cũng vậy. Nhưng chung cuộc thì bạn cũng đã là người làm toàn vẹn nhất nghĩa vụ đối với vùng đất mà chúng ta lớn lên, học hành, làm việc và chiến đấu. Những việc làm của bạn, của tôi và những anh em khác không mang lại sự thành công như chúng ta mong muốn, nhưng ít ra cũng từ những việc làm đó, chúng ta đã khẳng định được nhân cách của mình, đứng thẳng lưng để đối đầu trực tiếp với cường quyền. Và nhất là về một mặt nào đó, bạn đã là người đi tiên phong một cách can đảm và không tính toán thiệt hơn cho cá nhân mình, gia đình mình trong việc đòi hỏi quyền thiêng liêng của con người phải được tôn trọng chỉ 2 năm sau khi những người thắng trận điều hành đất nước bằng một chính sách hẹp hòi, kỳ thị và rừng rú, chà đạp lên quyền sống của mọi người.

San thân,

Câu chuyện về bạn có thể viết được một cuốn tiểu sử rất dày về đời tư, đời công và đời tù của một nhà tranh đấu. Nói như thế có nghĩa là bạn đã sống từng trải, đã là một ngôi sao trong nghề nghiệp của chính bạn, đã khôn khéo trong cách ứng xử với thế nhân, đã có một vài thiếu sót trong nghĩa vụ đối với gia đình nhưng trong đời công bạn đã làm việc và chiến đấu không biết mệt mỏi góp phần mưu cầu kiến tạo một xã hội dân sự tốt đẹp, trọng pháp và quyền con người được tôn trọng.

Mong bạn về cõi bình yên và sống ở một thế giới khác thênh thang hơn, không còn chiến tranh và cũng chẳng làm gì còn thù hận. Bạn xứng đáng được hưởng một “cõi” như thế. Cái phúc phần đáng nói nhất bạn để lại cho trần thế này là tiếng nói tha thiết nhất của một người yêu nước và yêu con người qua bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1977 mà bạn và luật sư Triệu Bá Thiệp là đồng tác giả mà kết quả của việc phổ biến nó khiến bạn phải trả cái giá của tù đầy lâu dài. Bạn cứ yên tâm rằng vắng bóng bạn, chúng tôi vẫn còn mãi mãi nhớ đến San “lùn” của A-20 Xuân Phước ngày nào và tôi sẽ nói với những đứa con đã trưởng thành và làm nên của bạn rằng bố San là người hùng của chúng tôi và cũng là người hùng của chính các cháu đó. (VA)


PHÂN ƯU






Nhận được tin cựu luật sư TRẦN DANH SAN, người đọc Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền ngày 23-4-1977 tại trước Vương Cung Thánh Đường Saigon, cựu tù cải tạo trại trừng giới A-20 Xuân Phước vừa qua đời vì bạo bệnh ngày 11-11-2013 tại tư gia ở Little Saigon, quận Cam, Nam California, hưởng thọ 77 tuổi.
Chúng tôi, những anh em cựu tù cải tạo trại A-20 Xuân Phước thành kính phân ưu cùng gia đình tang quyến và cầu mong hương linh Trần Danh San sớm về cõi Phật.

MỘT SỐ CỰU TÙ CẢI TẠO TẠI TRẠI A-20 XUÂN PHƯỚC Ở BẮC VÀ NAM CALIFORNIA, TEXAS, VIRGINIA, MASSACHUSETTS, WASHINGTON STATE, UTAH, FLORIDA, GEORGIA, MINNESOTA VÀ AUSTRALIA


--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
WESTMINSTER -

 Luật Sư Trần Danh San, người, vào ngày 23 Tháng Tư, 1977, đứng trước thềm nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền 

Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” vừa qua đời lúc 1 giờ 30 sáng ngày 11 Tháng Mười Một, 2013, tại tư gia ở Westminster, California, thọ 77 tuổi.
Nhắc đến Luật Sư Trần Danh San, nhiều người nhớ đến ông như một luật sư kinh nghiệm, tài giỏi, đã cùng Luật Sư Triệu Bá Thiệp viết và đọc bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên của Việt Nam vào năm 1977, chưa đầy 2 năm sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam.
Luật Sư Trần Danh San (trái) và luật sư Triệu Bá Thiệp, 2 đồng tác giả “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” trong một sinh hoạt tại Little Saigon năm 2011. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)



                                       
Trong một lần trả lời phỏng vấn của Người Việt năm 2011, Luật Sư Trần Danh San kể lại thời điểm đọc bản Tuyên Ngôn: “Chúng tôi gồm hơn 10 luật sư trước 1975 đang hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngả tiến theo hai đường tập trung trước nhà thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 Tháng Tư. Chúng tôi đã dùng một cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ để đọc lên bản Tuyên Ngôn. Ngay lúc đó công an ập đến bắt chúng tôi về Tổng Nha Cảnh Sát cũ rồi sau đó giải về Phan Ðăng Lưu.”
Bản Tuyên Ngôn kêu gọi những người nông dân trên thế giới hãy hướng về Việt Nam, để thấy người nông dân Việt Nam phải lao động cực nhọc suốt ngày với bụng đói vì hoa màu làm ra mà không được sở hữu.Bn tuyên ngôn cũng kêu gi công nhân trên thế gii hãy thu hiu thân phn công nhân Vit Nam đang phi làm vic ct lc đ “dâng” lên đng, lên lãnh t Cng Sn, máu và m hôi nước mt ca h.Bn tuyên ngôn cũng kêu gi nhng nhà truyn giáo, khoa hc gia, triết gia, văn ngh sĩ, trí thc hãy ngưng tng kinh, bước ra khi nhng tháp ngà nghiên cu, b gãy ngòi bút sáng tác mà hướng v Vit Nam, nơi nhà th, chùa chin t vin biến thành các tr s hp tác xã, nơi mà các đnh lut khoa hc b bóp méo, nơi mà các văn ngh sĩ trí thc ch có mi vic làm là tung hô nhà nước, tung hô đng và lãnh t.
Bn tuyên b kêu gi các lc lượng văn minh trên thế gii đng dy, Liên Hip Quc phi can thip đ bn Tuyên Ngôn Quc tế Nhân Quyn được tôn trng, đ con người được bo v
Trong bc thư gi đến Người Vit, cu Thm Phán Phan Quang Tu viết rng: “Anh San là mt lut sư kinh nghim, tinh  thông lut pháp, hùng bin. Anh là mt nhà tranh đu nhân quyn kiên quyết, dũng cm &” và là “mt người bn hào sng, phóng khoáng, ân cn.”

Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người 

Việt Khốn Cùng, theo lời Thẩm Phán Phan Quang Tuệ, 

là bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trong 

lịch sử Việt Nam.”
Luật sư Trần Danh San bị Cộng Sản giam cầm 12 năm. Ông vượt biên sang Hoa Kỳ năm 1992.
Theo lời anh Trần Ðăng, con trai út của Luật Sư Trần Danh San, tang lễ sẽ được tổ chức tại PeekFamily  Funeral  Home. Lễ viếng bắt đầu vào ngày 18 Tháng Một Mười. Lễ hỏa thiêu vào ngày 19 Tháng Mười Một. (Ð.B.)
——————————————————–
Tài liệu của Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam
LTS - Cách đây 34 năm, vào ngày 23 tháng 4, 1977, tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, Luật Sư Trần Danh San, nhân danh Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, tuyên đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng.”
Ðây là một hành động can đảm của Luật Sư San và các đồng nghiệp luật sư trong Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, ngay giữa lúc mà chế độ cộng sản còn đang rất hung hãn sắt máu trong việc áp đặt nền độc tài chuyên chế lên toàn thể lãnh thổ miền Nam sau năm 1975.
Nhật báo Người Việt xin đăng tải toàn văn bản Tuyên Ngôn này, kèm theo tài liệu “ Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu,” cũng của Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, công bố vào ngày 23 tháng 4, 1977 nói trên.
***
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng
Văn bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” do 2 Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp ký tên, được tuyên đọc tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, ngày 23 tháng 4, 1977.
Chúng tôi những người Việt Nam khốn cùng, với tàn lực còn lại với tinh thần tàn phế, quyết đấu tranh bằng con đường bất bạo động để kêu gọi lương tâm nhân loại, các lực lượng của thế giới văn minh, hãy lắng nghe những lời cầu cứu thảm thiết của những kẻ hấp hối.
- Tàn lực vì chúng tôi ăn đói và sẽ chết đói.
- Tinh thần tàn phế vì chúng tôi không được sống và suy tưởng như con người.
Chúng tôi buộc phải cúi đầu khom lưng tung hô vạn tuế chủ nghĩa – một chủ nghĩa đã lỗi thời và chống lại con người. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ con người để thức tỉnh bọn đao phủ mù quáng và tham tàn. Vì chỉ có con đường bất bạo động mới tránh khỏi các cuộc thảm sát huynh đệ tương tàn và khỏi làm nhơ bẩn tấm lòng trong trắng của những người Việt Nam khốn cùng.
Hỡi các nông dân trên thế giới hãy hướng về Việt Nam – nơi mà người nông dân phải cực nhọc suốt ngày với bụng đói. Hoa màu của họ bị tịch thâu nhân danh quy luật duy vật sử quan. Con trâu sau khi cày còn được nghỉ chứ người nông dân Việt Nam buộc phải theo dõi các buổi học tập nhồi sọ vô tận.
Hỡi các công nhân trên thế giới, các bạn có thấu hiểu thân phận của người công nhân Việt Nam không? Người công nhân Việt Nam phải theo chế độ “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ.” Ngày nghỉ họ buộc phải làm gấp đôi để dâng lên đảng, lên lãnh tụ mồ hôi, máu, và nước mắt của họ. Quyền thiêng liêng nhất của công nhân là quyền đình công, quyền này đã bị tước đoạt. Mọi ý kiến và hành động không theo khuôn mẫu sát của đảng đều đương nhiên bị coi như hành động phá hoại, gián điệp.
Hỡi các nhà truyền giáo, các khoa học gia, các triết gia, các văn nghệ sĩ, các trí thức, những ai đang tụng kinh hãy ngừng lại, những ai đang say mê nghiên cứu trong tháp ngà, hãy tung cửa ra, những ai đang sáng tác với ngòi bút, hãy bẻ gãy nó đi, tất cả hướng về Việt Nam – nơi mà chùa và nhà thờ đã bị biến thành hội trường để tuyên truyền chính trị – nơi mà các định luật khoa học bị móp méo để thỏa mãn chủ nghĩa – nơi mà các văn nghệ sĩ chỉ còn một việc duy nhất là tung hô Nhà nước theo lệnh của đảng.
Các vị và các vị hơn ai hết đã hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình cho Lòng tin, Sự thật, Công lý, Hòa bình và Tiến bộ, các vị không có thể làm ngơ quay lưng lại thảm họa Việt Nam trong đó có con người Việt Nam khốn cùng đang bị đày đọa trong xác thịt và câu thúc trong tinh thần. Thảm trạng này là do một thiểu số – bọn đảng viên và tay sai của chúng – muốn áp lên dân tộc khốn cùng này là những ảo mộng điên khùng nhất, quỉ quái nhất mà nhân loại chưa từng thấy. Các lực lượng văn minh trên thế giới hãy đứng dậy.
Không còn chờ đợi gì nữa!
Liên Hiệp Quốc phải can thiệp cấp thời để áp dụng và áp dụng triệt để Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền đối với những người Việt Nam khốn cùng chiếu theo sự quy định của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Luật Sư Trần Danh San
(ký tên)
Luật Sư Triệu Bá Thiệp
(ký tên)
23 tháng 4, 1977
***
Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu
Văn bản “Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu,” do 2 Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp ký tên, được tuyên đọc tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, ngày 23 tháng 4, 1977.
- Chúng tôi đấu tranh để trả lại nụ cười cho trẻ thơ. Các cơn đói đã giết nụ cười hồn nhiên của chúng. Chúng phải nói dối để cha mẹ chúng thoát khỏi các cuộc tra vấn của công an.
- Chúng tôi đấu tranh để giành lại sự ấm cúng kín đáo của gia đình. Nay, thay thế vào đó là các buổi sinh hoạt tập thể căn cứ trên nguyên tác phê và tự phê để buộc chúng tôi phải lên án nhau. Thực chất của nó là Tòa Án Nhân Dân thu nhỏ, diễn ra hằng ngày dưới sự chủ tọa của công an khu phố.
- Chúng tôi đấu tranh để khỏi phải bị chứng kiến thảm trạng trong đó tiếng nói con người đã biến thành sự rên xiết vì sợ hãi và đói khổ. Quyền cuối cùng của con người là quyền than thân trách phận. Quyền này cũng bị tước đoạt vì làm như vậy có nghĩa là mất tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Ðảng. Chỉ riêng điều này cũng đủ để tống giam chúng tôi.
- Chúng tôi buộc phải đấu tranh vì đảng Cộng Sản Hà Nội buộc chúng tôi phải chấp nhận cái không thể chấp nhân được, bắt chúng tôi phải chịu đựng cái không thể chịu đựng được.
- Chúng tôi đấu tranh để giành lại hoa màu cho nông dân. Vì hoa màu của họ tịch thâu. Ðó là cách duy nhất để thực hiện kế hoạch nhà nước và tuân hành chỉ thị của đảng. Nếu người nông dân muốn xin lại một phần ít, họ phải chứng tỏ là các tín đồ trung thành của tôn giáo mới ‘Máxít-Lêninít’.
- Chúng tôi đấu tranh để giải phóng người công nhân. Họ phải thi hành chế độ ‘làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm trong ngày nghỉ’, trong khi đó lương của họ bị cắt giảm qua các phong trào được gọi là “Thi đua Xã Hội Chủ Nghĩa.”
- Chúng tôi đấu tranh cho các tu sĩ bị kết án “là con buôn thuốc phiện.” Vì chủ nghĩa cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng.
- Chúng tôi đấu tranh cho các người đang bị giam trong các trại tập trung cải tạo, mà nạn nhân đầu tiên là các trí thức. Tội duy nhất của họ là muốn được sống và suy tưởng theo như Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền.
Là những con người và là con người Việt Nam, chúng tôi muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc và thế giới, muốn thưởng thức văn học nghệ thuật nước nhà và các nền văn minh khác. Chúng tôi chỉ làm được điều này nếu có sự cho phép của cơ quan kiểm duyệt của đảng. Chúng tôi buộc phải tuân theo chính sách nhân hộ khẩu. Mọi vi phạm sẽ đưa đến việc cắt hộ khẩu. Ðiều đó có nghĩa là chết đó. Ðể đổi lấy thẻ hộ khẩu, chúng tôi buộc phải sống trong tình trạng quản thúc, mọi di chuyển đều bị kiểm soát. Ðó chính là bản chất của chính sách nhân hộ khẩu.
Chính vì vậy, chúng tôi phải đấu tranh. Chúng tôi đấu tranh để bênh con người, và các quyền bất khả xâm phạm của con người. Chúng tôi đấu tranh để giành lại sự tươi mát của tương lai.
Luật Sư Trần Danh San
(ký tên)