Hồi Ký của " Một Nhân Chứng Lịch Sử " Việt Nam.
Hồi-ký của Bà
Ngô Đình Nhu
Hồi-ký của Bà
Ngô Đình Nhu
Nguyễn Vy Khanh
Ở hải-ngoại, từ giữa thập niên
1980, từ sau cuốn hồi-ký của ông Đỗ Mậu, các hồi-ký về cái chết của Việt-Nam
Cộng-Hòa, về cái chết của Đệ nhất cộng hòa và anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
về cuộc chiến chấm dứt ngày 30-4-1975 ở miền Nam, ... đua nhau xuất-bản,
tái-bản. Sử liệu thì cũng có dù giả-chân đầy ra đó, nhưng không thiếu những lời
tự biện hộ hoặc tự đề cao cá nhân và phe nhóm; toàn là lời chót lưỡi của những
con người khi có quyền lực đã không làm gì hoặc đã nhúng tay vô chàm hay đồng
lõa, nay đánh bóng lại cái sai lầm, cái đồng lõa một thời, và nếu có thủ phạm
thì toàn là người đã chết không còn tự biện hộ hoặc phản pháo lại “đồng đội”
được nữa! Và mỗi năm đến ngày 2 tháng 11, người ta lại tổ chức tưởng niệm người
đã chết, chạy theo khí tiết người bị giết, đăng đàn diễn thuyết, ra sách, viết
báo về những chuyện tưởng chưa bao giờ nghe nhưng thực ra đã nghe đâu đó rồi!
Năm nay là đã 50 năm sau ngày đảo chánh 1-11-1963, công tội đã rõ, nhưng người
ta vẫn chưa thỏa mãn, đặc-biệt người ta mong đợi cuốn Hồi-ký của Bà Ngô Đình
Nhu từ nhiều năm qua – mong đợi có thể vì tò mò và sẵn sàng “phản pháo, đính
chính, chụp mũ” hơn là vì muốn biết Bà Ngô Đình Nhu nghĩ gì về những biến cố bi
thảm đã xảy ra cho đất nước và cho riêng gia-đình bà và chồng bà.
Và cuối cùng, sau gần 47 năm im
hơi lặng tiếng, bà viết xong tập hồi-ký ngày 22-8-2010 tại nhà riêng
(Tịnh-Quang-Lâu) ở ngoại ô Rome nước Ý, do sự thôi thúc của cô gái út Lệ Quyên
và con rể Olindo Borsoi (mà bà xem là do Chúa sắp đặt vì bà đã muốn giữ im
lặng, tr. 190), và 6 tháng sau, ngày 24-4-2011, bà qua đời tại bệnh viện ở
La-Mã, tên thánh Maria (bà trở lại đạo Công-giáo sau khi lập gia-đình), thọ 87
tuổi, sau 48 năm sống lưu vong. Hôm 2-11-2013 vừa qua tại nhà thờ giáo xứ
Việt-Nam ở Paris, nhân lễ tưởng niệm 50 năm ngày qua đời của Cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, thứ nam của ông bà Ngô Đình Nhu là ông Ngô
Đình Quỳnh đã cho ra mắt quyển sách tiếng Pháp La République du
Việt Nam et les Ngô-Đình ( Nền Cộng Hòa
Việt Nam và Gia Đình Ngô-Đình) mà hơn một nửa là di-cảo hồi ký của mẹ ông. Ông
đã cho biết lý do ra đời của quyển sách này như sau: “Cuốn sách được xuất bản
hôm nay có một phần hồi ức của Mẹ tôi được ghi chép từ năm 1963. Đồng thời
chúng tôi có ý muốn soi sáng một phần của lịch sử hãy còn mù mờ. Một số sai lầm
về hình ảnh của hai anh em họ Ngô mà cả bên Tây Phương lẫn đảng Cộng sản Việt
Nam đã lưu truyền. Từ quyển sách này chúng tôi muốn đem lại cái nhìn đúng đắn
hơn, đồng thời có phần đóng góp của Mẹ tôi với nhãn quan có phần huyền bí của
Bà. Thế thôi!». Chúng tôi được một tín hữu cùng giáo xứ với bà Nhu ở Paris gởi
cho một bản; trong bài này chúng tôi chỉ ghi lại những điểm đặc-biệt hoặc ít
được biết, hoặc theo cách nhìn và cắt nghĩa của bà Nhu, còn phần thần học tâm
linh, sẽ để một dịp khác hoặc người khác trong ngành bàn đến.
Tập sách 246 trang nhưng phần
hồi-ký do Bà Ngô Đình Nhu viết với tựa đề “Le Caillou blanc” (Viên Sỏi Trắng)
được hơn 130 trang (tr. 109-241) kể cả phụ lục 3 bức thư viết tay chưa từng
công bố của ông Ngô Đình Nhu viết gởi cho đồng môn Ecole des Chartes ở Paris
(20-4-1956, Tết 1963 và 2-9-1963) nay vẫn được giữ ở Văn khố nhà trường này.
Phần đầu do hai người con Ngô Đình Quỳnh, Ngô Đình Lệ-Quyên (tử nạn giao thông,
16-4-2012) và bà Jacqueline Willemetz dẫn nhập với tài liệu gia-đình về lịch-sử
Việt-Nam từ sau ngày thành lập nền đệ nhất cộng hòa, ngày 26-10-1956, đến cuộc
đảo chánh 1-11-1963 và sau đó.
Bà Ngô-Đình Nhu nhủ danh Trần Lệ
Xuân, sinh năm 1924 tại Hà-Nội, thân phụ là Trần Văn Chương, con Tổng đốc Nam
Định, mẹ là Thân Thị Nam-Trân - với bên ngoại, bà Nhu là cháu ngoại vua Đồng
Khánh và là cháu họ vua Bảo Đại. Bà Nhu gọi ông Bùi Quang Chiêu là “ông bác”
(anh cả của bà nội) bị Hồ Chí Minh ra lệnh giết một cách tàn ác giết hết cả nhà
kể cả 6 người con mà đứa nhỏ nhất mới 6 tuổi; cả Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cũng
là anh em họ với thân phụ bà. Bà học Albert Sarrault, thi đậu tú tài Pháp. Năm
19 tuổi, bà kết hôn với ông Ngô Đình Nhu ở Hà-Nội ngày 30-4-1943, sau đó ông bà
về sống ở Huế.
Không biết khi đặt tựa Viên Sỏi Trắng/Le Caillou blanc cho cuốn hồi-ký, bà muốn nói thân phận bà bị lịch-sử đối xử như
vậy mà vẫn trắng trong, nhỏ bé, hay muốn tả nỗi lòng trơ như đá, bất nhẫn trước
thời cuộc? Thật vậy, trong hơn nửa tập hồi-ký, bà nói đến chuyện tâm linh,
những chuyện cao xa hơn chuyện thế tục thường tình, về sự hiện hữu của
Thượng Đế và của con người. Mở đầu hồi-ký, bà Nhu ghi lại lời sách Khải Huyền
“Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta
sẽ ban cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng,
trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận”
(Apocalyse 2, 17). Và thêm lời Thánh Thư Luca : “Ai là người nhỏ nhất trong
tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Luc 9, 48).
Bà bắt đầu hồi-ký ở chương 1, “Lý
lẽ của định mệnh” như sau: “Vào cuối cuộc đời tôi, sau nửa thế kỷ im lặng,
và vì ý nghĩa đơn thuần của nhiệm vụ, tôi ghi lại những gì cần phải được biết.
Đó là sự giải thoát cho tất cả. Không phải để thỏa mãn tò mò nào đó, nhưng để
trả lại những gì mà định mệnh đã đòi hỏi “kẻ nhỏ nhất” của Thiên Chúa, vào thời
điểm của kẻ đó. Tôi bắt đầu cuốn ký ức này, nếu tôi có thể viết xong được, cốt
để làm cho người khác hiểu được những đòi hỏi của một chuỗi dài đời-sống đã
được định sẵn trước, nhận ra rằng cuộc sống không bao giờ có hành động trái với
ý muốn của mình, mà trái lại, luôn luôn như là phải như vậy” (tr. 112).
Như vậy, bà xem thân phận bà như
viên sỏi trắng “nhỏ bé” mà định mệnh đã đặt vào thời đó, nơi đó. Từ suy nghĩ về
cuộc đời mình, bà khám phá ra được Thiên Chúa một cách bất chợt và khủng khiếp.
Cái gì thuộc về Tạo Hóa sẽ trả lại cho Tạo Hóa để thực hiện đầy đủ và tột cùng
chương trình của con người. Định mệnh, đó là cắt nghĩa đơn giản của bà lúc này
là lúc bà đã bắt đầu cảm nhận sống những ngày tháng cuối đời, và trước nay bà
sống một cuộc sống mà bà không bao giờ nghi ngờ gì.
Bà ra đời do một bác sĩ người Pháp
đỡ đẻ thay vì là một cô mụ người Việt, ông ta nắm 2 chân trẻ sơ sinh và đánh
vào mông thật mạnh cho đến khi đừa bé khóc ré lên phản đối. Đó là khung cách
bạo lực mà bà đến với cuộc đời này, đã vậy mẹ bà lại thất vọng vì bà là cô con
gái thứ hai. Sau bà là một em trai sẽ khiến mẹ bà càng hất hủi bà - khi cha mẹ
bà vào Sài-Gòn, đã để một mình bà lại cho bà nội nhưng sinh hoạt chung với
người làm, khiến bà bị bệnh nặng. Được về sống lại với gia-đình, bà lớn lên
trong tự tin một cách tự nhiên, dễ chấp nhận nhưng cũng sẵn sàng đối đầu với
thực tại, ở trường cũng như trong gia-đình, nhưng bà không được yêu thương như
chị và em trai, trở thành đứa trẻ không thể động đến (Intouchable). Khiến về
sau bà biết lúc cần xuất hiện và lánh mặt khi không còn cần thiết, cho đến khi
bà phải đối đầu với Tây phương, thực-dân và đế quốc, bà vốn dè dặt một cách
đặc-biệt. Đối đầu đòi hỏi sự tôn trọng tha nhân, nhưng ở đời không phải lúc nào
cũng vậy, bà thường rút lui, không muốn tấn công ra mặt, cuối cùng bà chịu sự
bất cảm thông hoặc ác ý của kẻ kia.
Năm 17 tuổi, bà gặp ông quản thủ
thư viện Ngô Đình Nhu, lần đầu khi đến thăm gia-đình bà vốn là chỗ thân giao từ
kinh thành Huế. Hai người mến nhau từ việc ông Nhu đến mà cô Trần Lệ Xuân chưa
chưng xong hoa vừa đi mua về theo lệnh mẹ; cô gái đẩy ông Nhu vào phòng đợi nhỏ
và dặn chỉ được đi ra khi cô xong chậu hoa. Sau đó thì chàng tặng sách, nàng
hồi thư – được chàng tặng cho danh hiệu “Bà De Sévigné” vì thư nào cũng dài hơi
và linh hoạt. Chính ông Ngô Đình Diệm quyền huynh thế phụ (đã mất) đến xin hỏi
cưới cô Xuân cho em mình. Sau ngày cưới, cô Xuân hài lòng thoát gia-đình, đưa
theo bà vú, về nhà chồng ở Huế. Vai trò bà đã thay đổi, hết bị rẻ rúng như ở
với cha mẹ, nhất là từ khi anh cả Ngô Đình Khôi và con trai nối dòng bị
Việt-minh giết, con cái bà sẽ nối dõi tông đường. Bà vú xin thôi việc sau đó vì
cảm thấy không thiết yếu trong khung cảnh sống mới, điều mà bà Nhu sau này tiếc
nuối, nhất là thời gian bị Việt-minh bắt lên rừng và sống ở Đà-Lạt.
Bà cảm nhận rằng rừng núi
Nam-Giao, một nơi thiêng liêng độc nhất ở Việt-Nam, tượng trưng cho sự đợi chờ
Thần Thánh Vạn Năng không tên, của cả một dân-tộc, trãi qua nhiều tôn giáo. Bà
đã du lịch nhiều nơi nhưng chỉ có Nam Giao là đã cho bà ấn tượng mãnh liệt rằng
thần linh đã chúc phúc cho dân-tộc Việt. Bà không thể lường trước cuộc sống đầy
bất trắc với chồng và gia-đình chồng, nhiều lúc bà trách chồng “dối” bà (không
tiết lộ gì) khi làm chính-trị, bí mật. Ban đầu ông Nhu thường sang nhà các
người anh để trò chuyện, đến bữa ăn ông bà sang nhà từ đường phía bên kia kinh
An Cựu để dùng bữa. Một năm làm quen với Huế và đại gia-đình nhà chồng, thì bất
hạnh xảy đến cho người anh cả Ngô Đình Khôi và con trai ngày 22-8-1944. Sau đó
chồng bà biến mất, sợ rơi vào tình huống của ông anh cả và ông Ngô Đình Diệm,
người anh thứ ba, cũng đã bị Việt-minh bắt trên xe lửa từ Sài-Gòn về Huế và đưa
ra nhốt ở miền thượng-du Bắc Việt từ tháng 9-1945 đến 12-1946. Ông Diệm được
thả ở Hà-Nội nhờ chồng bà đã gặp ông Hồ, vả lại họ Hồ bí không trả lời ông Diệm
được tại sao lại giết anh cả và cháu của ông. Ông Nhu đã ra Hà-Nội lúc đó, ở
nhà cha mẹ bà và không ai biết ông làm gì lúc đó (bà Nhu không hay biết gì, mà
ông Nhu cũng không hề kể). 20 tuổi, một mình ở Huế dù có người làm, bà dần dà
thấy chồng bà không những không bảo vệ bà mà còn là một mối nguy cơ đe dọa bà và
tiểu gia-đình bà (tr. 135) – may mà bà còn có an ủi: ngày 27-8-1945, bà hạ sinh
cô con gái đầu Lệ-Thủy. Ông bà Trần Văn Chương cuối cùng bỏ Hà-Nội (villa bị
tịch thu) vào ở Huế, ông Nhu cũng trở về Huế, nhưng cán bộ cộng-sản đến nhà
tìm, bà Nhu đã khéo léo lần lữa bắt tên này chờ đến phải bỏ về và hẹn trở lại, nhưng
đêm đó ông Nhu phải bỏ trốn, và bà Nhu không có tin tức chồng trong một
thời-gian dài sau đó. Sau ngày 19-12-1946, chiến-tranh lại bùng nổ, bộ đội
Việt-minh cưỡng bách gia-đình bà Nhu phải bỏ nhà cửa sơ tán khỏi thành phố Huế
theo vào vùng họ kiểm soát, trãi qua suốt mùa Đông lạnh lẽo. Cuối cùng mẹ con
bà được một linh-mục Dòng Chúa Cứu Thế đem thuyền đến giúp trốn về Nhà Dòng, ở
nhà kho nơi ông Cẩn đang tạm trú, nhưng hôm sau bà ôm con 3 tuối theo xe vào Đà
Nẵng và mua vé máy bay quân sự vào Sài-Gòn. Tạm trú ở nhà người chị, bà Nhu vô
cùng ngạc nhiên gặp lại chồng bí mật ở nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó ông bà lên
sống ở Đà Lạt, ở nhà người chị của bà, theo bà là "thời gian hạnh phúc
nhất", bà sinh thêm hai người con trai, Ngô Đình Trác 1947 và Ngô Đình Quỳnh
1952, và cuộc sống của gia-đình bà tại Đà Lạt tuy giản dị, trong khung cảnh
hoang dã nhưng an ninh, lúc đầu xa rời chính trị. Nhưng rồi bà thừa nhận bà đã
cô độc khi ở đây và viết: "Chồng tôi thường biến mất mà chẳng nhắn lại
gì" (tr. 152).
Từ khi ông Ngô Đình Diệm, anh
chồng bà, được cử làm Thủ tướng từ Pháp về nhận chức (7-7-1954), ông bà Nhu
xuống Sài-Gòn để phụ tá. Ông bà Nhu và 3 con sống tạm nhiều nơi trước khi về ở
trong Dinh Độc Lập. Ông Nhu làm báo Xã-Hội tòa soạn ngay
trong căn nhà nhỏ hẹp. Trong lúc thủ đô Sài-Gòn tình hình chưa ổn định, phe
Bình Xuyên và tay chân của Pháp liên tục quấy phá, bà Nhu đã thành công một
việc ngoài sức tưởng tượng: nhân dịp tướng Nguyễn Văn Xuân mời ông bà Nhu ăn ở
một nhà hàng trong Chợ Lớn, bà Nhu đã hỏi thẳng ông Xuân tại sao không cách
chức tướng Nguyễn Văn Hinh tổng tư lệnh quân đội, ông Xuân đã thách thức bà Nhu
tìm cho được 5 chữ ký thì ông sẽ thuận theo yêu cầu đó. Bà Nhu tình cờ gặp
những người từ Bắc mới di cư vào, cùng họ vận động những người di cư kín đáo tụ
tập rồi giơ cao biểu ngữ trước nhà thờ Chánh tòa Sài-Gòn ngày 21-9-1954. Dù
cảnh sát Bình Xuyên được mật báo nên đã có mặt ở trại di cư trước với 2 xe
tăng, bà lái chiếc xe hiệu Panhard đến và tra hỏi tại sao cảnh sát lại cấm cản
người dân đi chợ. Đám cảnh sát bỏ đi, xong trở lại, bà lên xe rồ máy bỏ chạy
đến trước nhà thờ nơi mà những người di cư đang chờ, và họ đã giương cao biểu
ngữ ủng hộ kiến nghị của bà Nhu (đòi hỏi tướng Hinh phải từ chức). Hình ảnh và
thông tin được gởi cho tờ báo tiếng Pháp duy nhất ở Sài-Gòn. Ông Trần Chánh
Thành bộ trưởng Thông tin đã kiểm duyệt không cho báo-chí VN đăng tin đó, nhưng
báo tiếng Pháp đã đăng tải phổ biến thông tin và hình ảnh vụ biểu dương mà
không được phép của chính phủ. Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn
Văn Xuân đã phải từ chức 3 ngày sau đó, trở thành “nạn nhân” đầu tiên của bà
Nhu (tr. 165). Nội các Ngô Đình Diệm phải cải tổ, bà Nhu bị người Pháp với sự
giúp đỡ của người Mỹ, ép đưa đi ra ngoại quốc 3 tháng để Nội các cải tổ được ổn
định, và để bà Nhu không thể ra ứng cử dân biểu Quốc hội lập hiến và lập pháp
sau đó. Nhưng vô ích, vì dù ở xa, bà sẽ vẫn đắc cử, với sự ủng hộ của tập thể
người di cư. Bà sang Hoa-Thịnh-Đốn nơi ông thân bà làm đại sứ ở Hoa-Kỳ, ông đưa
bà đến ăn sáng do thượng nghị sĩ J.F. Kennedy (về sau đắc cử Tổng thống) mời,
sau đó bà ở lâu hơn ở tu viện nữ người Ý ở Hương-Cảng. Bà tận dụng thời-gian ở
đó để học thêm tiếng Anh.
Bà Nhu trở về miền Nam và vào ở
trong Dinh Độc Lập. Sau Trưng cầu dân ý 23-10-1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở
thành Tổng thống, mở đầu cho nền Đệ nhất Cộng-hòa, và cử ông Ngô Đình Nhu chính
thức làm Cố vấn chính-trị – với chức này, ông Nhu đề ra thuyết Nhân Vị đề cao
tính siêu việt của con người, tức sự tái sinh bởi khả năng con người hành xử
Đức độ như Thiên Chúa đã dạy (Mt. 19, 28). Theo bà Nhu, thực dân Pháp chưa
buông tha, rút người về Cam Bốt, từ nơi đó tổ chức gây rối ở miền Nam. Vụ tiếp
theo là vụ ám sát Tổng thống Diệm ở Ban-Mê-Thuột, có liên quan đến Lê Văn Kim
người của Pháp đào tạo và từng là tùy viên của Thierry d'Argenlieu, đang là chỉ
huy Trường Võ bị Đà-Lạt. Rồi đến vụ đảo chánh 11-11-1960 và vai trò của tướng
Nguyễn Khánh từng là tùy viên của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và từng tổ chức
những buổi pique-nique ở Đà Lạt có bà Nhu và Bảo Đại, Nguyễn Khánh xưng là đại
diện cho nhóm đảo chánh. Bà Nhu tin là do Pháp giật dây. Bà Nhu đã can thiệp
khi thấy tướng Khánh dùng thủ đoạn đánh điểm yếu của Tổng thống Diệm là thương
người và sợ đổ máu. Bà Nhu hối chồng hất cẳng tướng Khánh và kêu gọi quân lính
trung thành về chiếm lại đài phát thanh. Tướng Khánh do đó bị đám đảo chánh kết
tội phản bội, nhưng đã thua nên phần lớn bỏ trốn sang Nam Vang. Đại diện CIA
gặp anh em Tổng thống Diệm cam đoan là Hoa-Kỳ đã đứng ngoài vụ đảo chánh, bà
Nhu có mặt ở đó đã trách móc người Mỹ “Tôi không mong chờ các ông đồng minh,
tức là bạn, giữ trung lập trong vụ này!”.
Thái độ của bà Nhu gây chú ý của
Hoa-Thịnh-Đốn. Vụ tiếp theo là chuyến viếng thăm Việt-Nam của Phó tổng thống
Lyndon B. Jonhson ngày 12-5-1961. PTT Mỹ xuống máy bay, bất chấp nghi thức
ngoại giao, thay vì đến chào PTT Nguyễn Ngọc Thơ trước, ông đã đến thẳng bà
Nhu, khiến ông Thơ phải chạy theo sau lưng ông PTT Mỹ. Trong buổi điểm tâm sau
đó do PTT Thơ mời, có cả ngoại giao đoàn và các dân biểu, ông PTT Johnson thêm
một lần gây bối rối khi mời bà Nhu sang thăm trang trại của ông ở Texas mà bà
Nhu lại từ chối với lý là chưa có dự tính đó. Vô tình bà Nhu nói dí dỏm sẽ sang
thăm nếu ông PTT trở thành Tổng thống. Không ngờ lời nói đó khích động PTT Mỹ,
ông kéo bà Nhu ra bao lơn nhưng vô tình sức mạnh kéo tay bà Nhu lại kéo luôn
phu nhân Chủ tịch Quốc hội, ông nhìn thấy hớ hênh bèn chữa thẹn rằng muốn bà
Nhu giới thiệu thắng cảnh Sài-Gòn từ bao-lơn. Không ngờ lời nói cho qua chuyện
lại thành sự thật hơn 2 năm sau đó. Năm 1964, ông Ngô Đình Cẩn - thành viên
cuối cùng của dòng họ Ngô Đình còn ở Việt-Nam, bị xử tử sau khi đã xin tị nạn
chính-trị với lãnh sự Hoa-Kỳ ở Huế lại bị giao cho nhóm đảo chánh dựng tòa án
kêu án tử hình. Bà Nhu đã viết thư yêu cầu TT Johnson can thiệp, nhưng ông đã
tỏ ra “hèn hạ” (tr. 177) - Bà Nhu từng khen ông Cẩn phụ trách cả miền Trung
khiến nơi đó yên bình mà không tốn kém gì cho chính quyền Sài-Gòn (tr. 182).
Trước đó, vào mùa Thu 1963 khi sang Hoa-Kỳ “giải độc”, bà Nhu đã nhận lời mời đến
thăm trang trại của hàng xóm của Johnson, Johnson đã không có hành động gì và
trong 1 lá thư duy nhất trả lời thư bà Nhu hỏi tại sao ông ta có vẻ sợ bà, ông
viết ”Làm sao tôi có thể sợ một phụ nữ tuyệt vời như bà?”. Lá thư này về sau bà
gởi lại một người bạn đồng môn của ông Nhu ở Paris nhờ giữ khi bà Nhu dọn về
Rome, đã bị một người đánh tiếng với con trai trưởng của bà Nhu là sắp chết nên
muốn nhìn thấy nó trước khi chết, nhưng lá thư không bao giờ trở lại - về sau
bà Nhu mới biết người này làm cho tình báo Pháp.
Đắc cử dân-biểu, đến năm 1958, bà
đề nghị Luật Gia-Đình có mục-đích giải phóng phụ nữ về mặt pháp lý (một vợ một
chồng, nam nữ bình quyền cả trong quản trị, sử-dụng và phân chia gia sản, thừa
kế di sản, v.v.), đã bị đa số vẫn còn tinh thần gia trưởng, gia tộc hoặc đa
thê, phản đối; dù Hiến pháp 26-10-1956 đã nêu cao nam nữ bình quyền nhưng trong
thực tế, người phụ nữ vẫn phải phục-tùng chồng là người vẫn được xã-hội xem là
giám-hộ. Bà tổ chức Phong trào Phụ nữ Liên đới (với hình biểu tượng Ngọn đèn
dầu của những cô trinh nữ trong Thánh Kinh) kêu gọi và giúp đỡ người phụ nữ ra
đời làm việc xã-hội, thiện nguyện. Bà Nhu kêu gọi tinh thần tái dựng lòng yêu
nước. Cùng lúc, bà tổ chức lực lượng Phụ nữ bán quân sự (10-1961) tự nguyện,
được huấn luyện tự vệ, sử-dụng vũ khí và y tế thường thức. Trưởng nữ Lệ Thủy
cũng gia nhập lực lượng này từ khi 16 tuổi.
Sáng sớm ngày 27-2-1962, thêm một
vụ chính biến do 2 phi công bắn phá Dinh Tổng thống. Con cái bà bị thương và bà
phải vào bệnh viện vì muốn cứu con với bà vú của cô út Lệ Quyên. Biến cố khiến
bà thêm ghê tởm bọn thực dân (tr. 180) - bà ghi rõ vụ bắn phá Dinh Tổng thống
là do thực dân (“colon”), sau đó là căn nhà từ đường bằng gỗ của gia-đình Ngô
Đình ở Huế cũng bị phá hủy, do “la rage francaise contre le Việt-Nam que nous
représentions...”(tr. 181).
Xảy ra vụ Phật giáo, bà Nhu muốn
có đại diện các đảng phái và các nhóm xã-hội trong Ủy Ban Liên Phái, nhưng Tổng
thống Diệm không thuận vì không muốn có bà. Nhưng khi xong Thông cáo chung và
bên Phật giáo đã ký, ông Nhu lại hỏi ý kiến bà trước khi cố vấn Tổng thống ký.
Bà thấy lạ vì các đòi hỏi của Phật giáo đều là những thứ chưa bao giờ cấm, bà
đề nghị ký nhưng ghi tay thêm mấy chữ là những đòi hỏi trong đây chưa bao giờ
cấm. Ông Cố vấn đem Thông cáo chung đến buổi họp sau đó và nói lại ý vừa kể,
ngoại trưởng Phật giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng không nói gì, nhưng Phó Tổng thống
Thơ phát biểu: ”Họ uống trà sâm còn mình uống trà thường khiến mình thành người
ngu”. Vì câu nói này mà ông Mẫu cạo đầu từ chức. Theo bà Nhu cũng ông VV Mẫu
này đến cận ngày 30-4-1975 nghe lời thực dân ủng hộ và theo
tướng Big Minh (lực lượng thứ 3), nhưng đế quốc mạnh hơn muốn chấm chấm dứt chiến-tranh (tr. 188)!
Trước ngày đảo chánh, từ ngày
12-9-1963, bà Nhu và cô trưởng nữ Ngô-Đình Lệ-Thủy lên đường đi “giải độc” ở Âu
châu và Hoa-Kỳ; trước khi xảy ra vụ ám sát anh em Tổng thống, bà và con gái
được đông đảo cảnh sát bảo vệ, nhưng sau đó thì bị bỏ rơi, may có một gia-đình
người Mỹ do 1 linh-mục giới thiệu, đã giúp đỡ mẹ con bà cho đến khi rời nước Mỹ
đi Rome. Phần ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, vài ngày trước đảo chánh đã gọi cậu Ngô
Đình Trác đưa 2 em lên Đà-Lạt và dặn dò khi có biến hoặc ông Nhu chết, thì phải
đưa 2 em trốn vào rừng. Khi xảy ra tiếng súng đảo chánh, các cô cậu đã chạy
trốn vào rừng phía sau nhà, trãi qua một đêm trong mưa lạnh. Cả ngày hôm sau đi
xuyên qua sông rạch để tránh để lại dấu vết, và cuối cùng đến một nơi trực
thăng có thể đáp và chờ đợi. Chỉ trong vòng ba ngày, mấy đứa trẻ đã thoát khỏi
sự nguy hại và tới được Rome trước khi mẹ và chị cũng đến đó.
Ngày 15-11-1963, bà và con gái rời
Los Angeles để đi Roma sinh sống. Bị đế quốc bỏ rơi, nhưng ở phi trường đầy phóng viên báo-chí và truyền hình.
Rồi lúc ghé Paris, bà cũng được đông đảo báo-chí phóng viên đón như vậy, ông
đại sứ Mỹ ở Paris bí không biết phải trả lời báo-chí ra sao bèn nói “Chúng tôi
có làm gì thì cũng vẫn bị nguyền rủa!”. Nhưng ít có nhà báo nào dám nói lên hết
sự thật, bà Nhu được ông nhà báo Georged Mazoyer dám bênh phía bà, nhưng ông ta
vừa được thăng chức giám đốc một nhật báo ở Paris ra ban chiều thì liền bị xe
đụng chết khi đi bộ. Bà Nhu thấy những ai đứng về phía bà đều bị biến mất (tr.
189-190): kế đó là bà Suzanne Labin và Marguerite Higgins (3-1-1966) – được
Tổng thống Kennedy gửi sang Việt-Nam điều tra riêng, bà là tác-giả cuốn Our Việt-Nam Nightmare (1965), trong đó
bà cho rằng biến cố Phật giáo chỉ là một trò đánh lừa (leurre), mục-đích không
vì Phật giáo mà vì muốn lấy đầu ông Diệm và thay vì bỏ lên mâm bạc như Thánh
Jean-Baptiste tử đạo, thì nay phải quấn cờ Mỹ; và bà nhận xét các sư sãi rất
rành tên các phóng viên ngoại quốc, gọi họ bằng tên/prénom!
Vào tháng 6 năm 1964, hiệp hội báo
chí Hoa-Kỳ tổ chức mời bà Nhu và con gái Lệ Thủy sang Mỹ làm một vòng để các cơ
quan thông tin báo-chí tìm hiểu sự thật (Truth Rally) về thực trạng Việt-Nam vì
các cơ quan này không tin giải thích của Hoa-Thịnh-Đốn (tr. 71). Lúc đó nước Mỹ
chuẩn bị bầu cử Tổng thống thay thế T.T. Kennedy, chính phủ Mỹ đã từ chối cấp
visa cho 2 mẹ con bà Nhu lấy “lý do an ninh quốc-gia“. Ngày 9-5-1975, khi trả
lời phỏng vấn của đài truyền hình, bà Nhu đã tố cáo chính quyền Kennedy can
thiệp vào Nam Việt Nam là "nhằm tạo thanh thế và sự ủng hộ cho Đảng Dân chủ Hoa Kỳ". Bà cũng bình luận cảnh đại sứ Mỹ Martin chờ
trực thăng tới đón trên nóc nhà, cờ Mỹ cuộn dưới nách: “Cường quốc Mỹ dùng để
làm gì, nếu không phải là để phải trốn chạy theo họ?”.
Năm 1985 khi báo-chí Hoa-Kỳ làm
kiểm điểm 10 năm Hà-Nội chiếm miền Nam, bà Nhu đã nhận trả lời phỏng vấn cho Newsweek, nhưng các cơ quan thông tin này đồng lõa với nhau để không ai
liên lạc được với bà (tr. 71). Bà sống lúc tại vùng Riviera nước Pháp, lúc ở
nhà bên Roma, bà trả lời phỏng vấn một lần khác để lấy tiền và vé máy bay khứ
hồi cho con gái út qua thăm ông bà ngoại ở Mỹ. Bà Monique Brinson Demery phỏng
vấn bà Nhu năm 2005 đánh dấu lần đầu tiên bà trả lời báo chí phương Tây sau một
thời-gian khá lâu, phỏng vấn để thực hiện cuốn sách về bà Nhu, Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu (New York : Public Affairs, 2013), nội-dung cuốn sách cho thấy bà
Nhu đã nói chuyện với bà Demery với nội-dung cuốn hồi-ký.
Suốt tập hồi-ký, bà Nhu cho người
đọc thấy và hiểu rằng bà căm ghét thực dân
Pháp vàđế quốc Hoa-Kỳ (bà gọi chung là “Occident
criminel”). Bà có thắc mắc là ngoài Thánh lễ khai mạc Cộng đồng Vatican II ngày
2-12-1963 có nhắc ý lễ cầu cho anh em Tổng thống Diệm, Tòa thánh Vatican đã
không lên tiếng và không làm gì về cái chết của anh em chồng bà (và người mà
Tòa thánh giới thiệu giúp làm giấy tờ cho căn nhà mà Đức Cha Thục mua cho mẹ
con bà ở Roma lại lừa dối cướp hết tiền gia-đình bà). Bà kể có thể đã góp phần
(qua một phỏng vấn ngay trước đó) trong việc khiến cho Hà-Nội đã phải để cho
Đức Cha Nguyễn Văn Thuận, cháu của ông Nhu, ra ngoại quốc chữa bệnh và thoát
cộng-sản; và hơi trách móc Ngài đã không làm gì cho những cái chết của chồng và
các anh em chồng bà.
Bà cho rằng sau ngày 2-11-1963 anh
em Tổng thống bị giết, nước Việt-Nam
rơi vào địa ngục là do các đế quốc thực dân và cộng-sản (tr. 201). Bà
thêm, cái chết của Lệ Thủy con gái bà vẫn chưa được điều tra đến cùng! Về phần
người Pháp, bà gọi là “tên thực dân” (colon) và so sánh với quỷ Satan khi dùng
lời Chúa Jesus cảnh báo Thánh Phê-Rô: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản
lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của
con người” (Mt 16, 23) – vì thực dân đã lợi dụng danh nghĩa của Giáo hội để
làm chuyện Ác đã khá lâu rồi ở Việt-Nam. Bà Nhu cho người đọc hiểu rằng bao
nhiêu biến cố, đảo chánh, ám sát, v.v. thời Việt-Nam Cộng-Hòa đều là do bàn tay
của thực dân và đế quốc chủ động hết, do đó bà không nói nhiều đến những tay
sai người Việt của chúng. Bà cho rằng với những gì bà viết ra, chỉ có đám thực
dân là phải tự vấn lương tâm (tr. 190)!
Cuối cùng là những suy niệm tâm
linh cuối đời của bà; bà tạ ơn Chúa đã đoái nhìn con chiên Việt Nam qua việc đức
Hồng y tân cử của Hoa-Kỳ đã đến La-Vang ngày 21-8-2009 dâng lời cầu nguyện “Đức
Mẹ La-Vang cũng là Đức Mẹ của quốc-gia Hoa-Kỳ và của giáo hội Công-giáo“. Và bà
cảm ơn và hiểu Chúa đã trao phó cho bà trọng trách làm mẹ và bà đã làm hết mình
cho đến cuối đời!
*
Trong Phần Phụ lục, trong lá thư đề ngày 2-9-1963, 2 tháng trước ngày bị
giết, ông Ngô Đình Nhu trình bày lập trường Việt-Nam chính-thực của chính phủ
của Tổng thống anh ông (Việt-Nam của người Việt Nam!) trước âm mưu của Hoa-Kỳ
đi chung với Liên Xô cộng-sản, âm mưu đưa đến phương-tiện thôi miên, tuyên
truyền, huyền-hoặc các sư sãi rồi đẩy những kẻ này vào lửa thiêu sau khi báo
cho thông tín viên quốc tế biết để đến quay phim, chụp hình (và cản cứu người
“tự thiêu”!) (1). Từ ngày ra thiết quân luật 20-8-1963 thì hết còn tự thiêu,
nhưng 2 thế lực kia lại xúi sinh viên học sinh xuống đường như đã làm ở Đại Hàn
và Thổ-nhĩ-kỳ, nhưng ông Nhu cho là thất bại vì chính quyền bắt đi học quân sự
và tẩy não chúng. Ông Nhu biết 2 thế lực đó chưa ngừng tay vì phải biện minh
với cấp trên về việc chi 20 triệu đô Mỹ (2) cho âm mưu này!
Chú thích:
1- Sau ngày đảo chánh 1-11-1963,
còn có 6 vụ tự thiêu Phật tử khác, nhưng không báo chí Tây phương nào để ý đến
nữa! Và sau ngày 30-4-1975, đã có biết bao nhiêu kỳ thị, kiểm soát, khủng bố
tôn giáo và toàn dân, tù đày, cướp của dân,... nhưng thượng tọa Trí Quang không
có hành động nào, trở thành câm, lặng, đồng lõa với cộng-sản Hà-Nội! Còn vụ
Phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến VN điều tra về vụ gọi là «đàn áp Phật giáo», Báo
cáo được dịch ra Việt ngữ - Vi Phạm Nhân
Quyền Tại Miền Nam Việt-Nam, do Võ Đình Cường dịch, 1 nhóm Phật giáo xuất-bản năm
1966, từ tay Thích Trí Quang người đề tựa, nhưng đã bỏ đi phần kết luận (1 thứ
lừa dư luận từ cái thật, lộng giả thành như ... thật!). Đây là Báo cáo 234
trang trình ngày 7-12-1963 của Phái đoàn với kết luận không có đàn áp lẫn kỳ thị tôn giáo, và những đụng
độ với chính quyền chỉ là do 1 nhóm nhỏ, và có tính cách chính-trị, không phải
tôn giáo. Bản báo cáo bị giấu kín, đến tháng 2-1964, văn bản này đã được Thượng
Viện Hoa-Kỳ xuất-bản.
2- Ông Nhu tiên đoán đúng, tiếp đó
là chi tiền mua chuộc mấy ông tướng Việt-Nam làm đảo chánh và giết anh em ông
ngày 2-11-1963 và sau đó là ông Cẩn, người em khác! Lou Conein đưa 3 triệu đồng
tương đương 42 ngàn đô la Mỹ cho nhóm tướng lãnh đảo chánh để chia chác cho
nhau, thật ra chỉ là những đồng bạc lẽ từ 20 triệu đô!
Nguyễn Vy Khanh
Montreal, 11-2013
----------------------------------------------------------------------------------------
Một Lòng Vì Nước Vì Dân
. .. Thương thay, ba anh em ông Diệm đã bị bọn phiêu lưu chính trị tay mơ thanh toán tàn bạo, nghịch thường với đạo lý Khổng Mạnh, với truyền thống hiền hòa, ân nghĩa của dân tộc...Ông nằm xuống mà hồn non sông rung động !... "Không vì tình riêng mà quên phép nước", lúc còn thủ đắc quyền lực, TT Diệm đã một lần trực tiếp ra lệnh cho Phòng Quan Thuế Phi Trường Tân Sơn Nhất khám xét kỹ càng hành lý của Đại Sứ Ngô Ddình Luyện khi ông này từ chuyến du ngoạn Hồng Không trở về lại Sài Gòn. Kết qủa bất ngờ là không một món hàng lậu thuế nào được tìm thấy để biến thành ngòi nổ cho một xì căng đan chính trị ầm ỹ. Chuyện tưởng nhỏ và tầm thường ấy lại đặc biệt mang ý nghĩa quan trọng, đáng cho mọi người suy nghĩ vì cách đối xử nghiêm minh nội trong gia đình họ Ngô và việc thi hành nghiêm chỉnh luật pháp Quốc Gia. Thân danh là bào đệ của một vị cố Tổng Thống, lại là cựu đại sứ tại Anh Quốc, thế mà không một chút ngượng ngập, ông Luyện nhỏ nhẹ thổ lộ với cựu Đại Tá Duệ rằng đã trên mười năm ông vẫn chưa để dành đủ tiền để may sắm bộ quần áo mới cho tươm tất mỗi khi ra ngoài xã hộị Trong chuyến đi liên lục địa từ Âu Châu qua Mỹ, ông Luyện may mắn được một Mạnh Thường Quân ở Nữu Ước tặng vé máy baỵ Suốt thời gian ở San Diego thăm bà con và dự lễ cầu hồn cho bào huynh, ông Luyện tá túc tại nhà tác gỉa hồi ký (tức Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ). Được khoản đãi và được đài thọ mọi chi phí ăn uống di chuyển. Rời California lên Missouri thăm Tổng giám mục Ngô Đình Thục đang lâm trọng bệnh, ông lại được tác gỉa bỏ tiền riêng mua vé. Trên máy bay vào phòng vệ sinh xong, lúc ra thình lình dây lưng qúa cũ phựt đứt khiến ông phải túm vội lấy quần không cho tụt xuống, trong lúc khẩn cấp tác gỉa mau mắn rút giây lưng của mình đưa biếu ông Luyện thắt ta.m. Ngày chia tay về lại Pháp, rút ví kiểm tiền tổng cộng được $600 (sáu trăm đô) đô la y nguyên lúc ra đi, ông Luyện bùi ngùi xin được chia xẻ số tiền nhỏ nhoi ấy với tác gỉa. Bằng một cử chỉ đẹp cuối cùng, tác gỉa từ chối không nhận đồng nào mặc dù ông Luyện khẩn khoản. Chiếc thắt lưng kỷ niệm ân tình được ông Luyện gìn giữ đến ngày cuối đời. Chuyện kể lại mủi lòng qúa đổi ! Tình cảnh bần hàn của ông Luyện đã làm nổi bặt nếp sống thanh bạch, không hối mại quyền thế, không tham nhũng vơ vét của mấy anh em ông khi họ còn tại chức. Ghê gớm thay và cũng chán chường biết mấy trò bẩn thỉu ngậm máu phun người ! Cuộc đời của nhà ái quốc bất đắc kỳ tử Ngô Đình Diệm bàng bạc huyền thoạị Cuộc đời ấy giống như một cuốn sách tuyệt vời lôi cuốn nhiều thế hệ tương laị Những người yêu nước thật sự, yêu dân tộc, yêu quê hương, thiết tha mong muốn nghiên cứu sự nghiệp của ông sẽ hiểu thật rõ lịch sử sóng gío Việt Nam thời cận đạị Quanh năm nằm phản gỗ không nệm, sống bằng cá kho, canh đậu, hút thuốc Basto rẻ tiền, áo quần dăm bộ, màu xám cho mùa đông, màu trắng cho mùa hè, với chiếc mũ phớt, cây ba toong, con người uy vũ bất năng khuất ấy chỉ thích đây đó kinh lý các khu trù mật, dinh điền, thống khoái trước cảnh sung túc của đồng bào chất phác nơi thôn dã, lâm tuyền. Sống kiếp thầy tu, không vợ con, lấy anh em, giòng họ, người thân cận chung quanh, đồng bào nghèo khó khắp nơi làm nguồn vui gia đình. Hộp thuốc lá cũ hư hỏng cũng không muốn vứt bỏ, đưa nhờ sĩ quan quân cụ cố sửa lại dùng tiếp, không phí phạm, không tơ hào của công một xu, đó có phải là đức tính của mẫu người Á Đông không ? Ý muốn cuối đời trước khi bị thảm sát, sẽ từ bỏ địa vị và danh vọng khi hết nhiệm kỳ hiến định, sẽ nghĩ hưu về Huế phụng dưỡng mẹ gìa, sẽ vào dòng tu Chúa cứu thế nếu mẹ gìa qua đời trước, sẽ quanh quẩn bên các "Quốc gia nghĩa tử" con cháu những vị anh hùng hy sinh vì đất nước.... Toàn những tình cảm nhân ái trong một con người phi thường ! Giết ông xong, bọn cách mạng gỉa hiệu 1/1/1963 chỉ tìm thấy hai triệu tám trăm ngàn tiền lương và phụ cấp do Chánh Văn Phòng Võ Văn Hải và linh mục Nguyễn Văn Toán, hai người thân nhất cất giữ. Những nhà cách mạng rởm năm xưa, có phút giây nào ăn năn, hối lỗi không ?? Tự nhiên tôi xót xa ứa lệ !... (Bác Sĩ Nguyễn Anh Tuấn) --------------------------------- Từ tín tưởng tới thảm kịch
Ông Đại Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting trong cuốn "From Trust To Tragedy" của ông ta, đã viết về Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau: "Tôi đã có đọc lịch sử Việt Nam, và đã biết các cuc chiến tranh giành độc lập của xứ sở này, và cũng đã biết là ông Diệm hiểu biết tường tận, thấu đáo vấn đệ. May mắn là tôi cũng đã có một căn bản hiểu biết đáng kể về triết học và khoa tôn giáo đối chiếu. Nhưng tôi hoàn toàn không được chuẩn bị để nghe những điều như thế nàỵ Càng nghe tôi càng thích thu’. Tôi đặt những câu hỏi. Mỗi câu hỏi lại mở ra một chương mới, và sau một thời gian tôi nhận ra sữ dấn thân tận hiến và lòng say mê của con người này, là người đã hiến trọn đời mình để giữ cho bằng được căn cước lịch sử của dân tôc của ông ta và ông ta hiểu nó, yêu thích nó. . ...Cho đến lúc này cáo buộc quan trọng nhất của ông ta là người Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Ông ta (TT Diệm) không muốn người Mỹ đoạt lấy trách nhiệm của VN. Ông ta không muốn quân lực Mỹ chiến đấu cho nền đc lập và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN. Ông bảo tôi: "Nếu chúng tôi không tự mình thắng cuộc chiến này với sự viện trợ vô gía của qúy quốc thì như vậy chúng tôi sẽ thua và thua là đáng đời". Ông ta vô cùng cương quyết trong vấn đề này và ông ta cảm thấy rằng nếu chính phủ Nam VN trở nên lệ thuộc vào Hoa Kỳ thì như vậy chứng tỏ luận cứ của Việt cộng là đúng. Việt cộng thường nói rằng: "Nếu các anh cúi đầu thần phục Hoa Kỳ thì các anh sẽ thấy các anh đúng chỉ là thuộc địa của Mỹ cũng như 75 năm về trước VN đã từng là thuộc địa của Pháp". Về điểm tế nhị này tôi đã có thể trấn an ông ta, vì toàn bộ ý niệm của những khuyến cáo cho toán đặc nhiệm cũng như những huấn thị cho tôi do TT Kennedy ban hành, là phải giúp Nam VN tự bảo vệ nền độc lập tự Do của họ cho chính họ" (Đại Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting trong cuốn "From Trust To Tragedy"). 3) "... Gần như tất cả các sách báo Mỹ và Tây Phương viết về nền đệ Nhât Cng Hòa đều kết tội ông Nhu là một người tuy thông minh, tài giỏi nhưng tàn ác, qủy quyệt, khát máụ Tuy vậy nếu đem so sánh ông Nhu với các lãnh tụ độc tài khi phải đối phó với địch thủ nguy hiểm như CS thì không thấm vào đâu. Tướng Franco sau khi chiến thắng CS Tây Ban Nha đã đem ra xử tử hàng vạn đảng viên nên Tây Ban Nha mới được yên, tướng Suharto đã giết hơn 1 triệu đảng viên CS Nam Dương trong vụ đảo chính 1965 (nhờ có CIA giúp sức), khi đem quân sang Đài Loan tỵ nạn thì Tưởng Giới Thạch cũng giết hơn 1 vạn dân địa phương biểu tình chống lại Quốc Dân dảng. Nếu đem so sánh với Stalin, Mao, Hồ chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Khải Phiêu, Lê Duẩn. ..vv.. thì qủa thực hai anh em ông Diệm và Nhu đã qúa hiền lành, trung hậu nên mới mắc na.n. Ngay cả Hồ chí Minh khi được báo chí hỏi về cái chết của ông Diệm cũng phải khen ngợi "ông ta (Ngô Đình Diệm) là một người yêu nước, tuy rằng ông ta có đường lối riêng của ông ta". Trong một cuộc chiến sống còn với một kẻ thù nguy hiểm như CSVN thì bên cạnh mt quân đội thống nhất và thiện chiến như quân đi VNCH mà không có một bộ máy Mật Vụ tinh vi, một ý thức hệ riêng biệt, một hệ thống đảng phái để yểm trợ cho chính phủ thì làm sao có thế thắng CS được ? Các chính phủ ở Trung Nam Mỹ khi bị CS khuấy rối ở bên trong đã phải nhờ đến các đảng bí mật như "La Man Blanco" hoặc Justicialist để chống lại theo kiểu dĩ đc trị đc. Nhờ tổ chức La Guardia Civil nên tướng Franco đã dẹp tan được CS. Ngay cả Mỹ và các nước Tây Phương cũng phải trông cậy vào những cơ quan tình báo như CIA, FBI, Phòng Nhì, Intelligence Service và trước đây Đức thì có Gestapo, Nhật có Kempetai, đảng Hắc Long để chống lại CS. (Điểm Sách: Những Ngày Tháng Với TT Ngô Đình Diệm của Nguyễn Hữu Duệ, Xuân Sơn, Văn Nghệ Tiền Phong số 669, trang 52) "...Cu. (Ngô Đình Diệm) sống giản dị, không ăn cao lương mỹ vị, Cụ nằm phản không nệm, Cụ không xa hoa phung phí, khi đương thời Cụ chỉ lo cho Quốc Gia, chẳng lo gì cho bản thân, nay Cụ được chôn ở đây (Lái Thiêu), nghĩa trang sơ sài này, cạnh đồng bào nghèo khổ của Cụ, chắc Trời định vậy để hợp với đức tính khiêm nhường của Cụ. Con mừng vì nơi Thiên Đàng Cụ ở, Cụ cũng còn thấy nhiều người nhớ đến Cụ và đến thăm viếng Cụ. Con từ nơi xa xôi về đây viếng mong Hồn Cụ có thiêng, xin phù hộ cho tổ quốc thân yêu." (Trương Phú Thứ) --------------------------------- Ngày 1 tháng 11 Tưởng nhớ Cố Tổng Thống Ngô đình Diệm
![]() |
Anh Mâm, người trông coi nghĩa trang cắm nhang trước mộ Tổng Thống Ngô |
![]() |
Mộ bà Phạm Thị Thân nằm giữa, mộ Tổng Thống và Ông Cố Vấn hai bên |
![]() |
Quan tài Ông Ngô Đình Nhu và TT Ngô Đình Diệm bên phải được làm phép trước khi chôn |
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
![]() |
Cụ Ngô Đình Điệm bị giết. |
Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì ông Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam. Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. Ngày hôm sau, đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã được chuyển đến tướng Dương Văn Minh là Quốc trưởng. Rồi Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng gửi một lá thư tới Dương Văn Minh xin ân xá cho tử tội Ngô Đình Cẩn với lý do là Cẩn đang bị bệnh rất nặng, ngày sống chỉ đếm được trên đầu ngón tay cho nên không cần thiết phải hành quyết Cẩn. Nhưng tất cả đều bị Dương Văn Minh bác thẳng thừng. Tòa án báo cho thân nhân của gia đình Ngô Đình Cẩn là bà Ngô Đình Thị Hiệp, bà Ngô Đình Thị Hoàng (thường gọi là bà cả Lễ...) là đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã bị Quốc trưởng bác bỏ. Ngô Đình Cẩn sẽ bị hành quyết vào lúc 17h ngày 9/5/1964 tại Khám Chí Hòa. Trước làn sóng phản đối việc kết án tử hình Ngô Đình Cẩn ngày càng lan rộng trong giáo dân, chính quyền Dương Văn Minh - Nguyễn Khánh quyết thi hành án sớm. Tại Sài Gòn, ngày giờ xử bắn Ngô Đình Cẩn được giữ rất kín. Có hai người được biết trước là luật sư Võ Văn Quan và linh mục Jean Baptiste Lê Văn Thí. Ngày 8/5, linh mục Thí được vào gặp Ngô Đình Cẩn để làm lễ rước mình Thánh Chúa an ủi người sắp chết. Khi ông Thí vừa vào, chào hỏi xong thì Ngô Đình Cẩn đã hỏi ngay: "Ngày mai, họ đem con đi bắn phải không cha?". Linh mục Thí im lặng và khẽ gật đầu rồi hỏi lại: "Cậu có sợ không?". Ngô Đình Cẩn gượng cười, trả lời khá bình thản: "Con không sợ chút mô hết cha à!". Linh mục Thí hỏi tiếp: "Cậu có tha thứ cho những người đã làm khổ cậu và gia đình cậu không?". Ngô Đình Cẩn nói lớn, và rành rẽ: "Con tha thứ". Rồi Cẩn nói tiếp: "Con cũng mang tên Thánh là Jean Baptiste và cha cũng mang tên Thánh Jean Baptiste. Xin cha nhớ cầu nguyện cho con sớm lên Thiên đàng chầu Chúa và xin mọi người có đạo chứng kiến con chịu chết, xin đọc cho con một kinh lạy cha "Xin cho chúng tôi hàng ngày đủ dùng và tha tội cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi". (Ngô Đình Cẩn là con út trong nhà nên hay được gọi là cậu Cẩn. Sau này khi TT Ngô Đình Diệm giành được quyền lực thì Ngô Đình Cẩn cũng được coi là nhân vật cực kỳ thế lực ở khu vực miền Trung, cho nên ai đến với Cẩn cũng không dám gọi tên mà chỉ gọi là ông Cậu). Hôm sau, 10h trưa ngày 9/5, luật sư Võ Văn Quan vào thăm Ngô Đình Cẩn lần cuối cùng. Sau này, ông Quan kể lại cho nhà báo Phan Kim Thịnh: "Sáng sớm ngày 9/5, cháu Ngô Đình Cẩn là Trần Trung Dung vào thăm. Ông Cẩn nói chuyện một cách thản nhiên, không hề biểu lộ thái độ lo lắng, sợ sệt. Người cháu gái thì ngồi cạnh giường, khóc và nguyền rủa những kẻ phản phúc nhà họ Ngô. Nhưng ông Cẩn điềm tĩnh nói: "Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết". Khi gặp luật sư Quan, ông Cẩn cũng vẫn tỏ thái độ bình thản. Ông Quan cũng không hề biết là chính Ngô Đình Cẩn cũng đã biết rõ ngày giờ thi hành án. Lúc đầu, hai bên chỉ nói chuyện có tính chất xã giao nhưng rồi đột nhiên ông Cẩn tâm sự về thân thế của ông và tiết lộ một số câu chuyện bí mật. Lời nói của ông như là một sự trăng trối khiến luật sư Quan giật mình và thầm nghĩ: "Có lẽ ông Cẩn biết rồi". Rồi Ngô Đình Cẩn chuyển sang giãi bày những thủ đoạn chính trị của mình với giọng hùng hồn, hoạt bát, mạch lạc. Ngô Đình Cẩn cũng nhắc lại những cuộc tàn sát đẫm máu đối với những người Cộng sản khi Ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, và khẳng định làm chính trị thì phải chấp nhận thế thôi. Khi nói đến việc đàn áp những người Cộng sản, Ngô Đình Cẩn ngẩng cao đầu, mắt sáng long lanh, mặt đỏ bừng và nói như đếm từng tiếng. Nhìn đồng hồ đã thấy gần 12h trưa, Ngô Đình Cẩn bảo: "Luật sư đưa cho tôi cái danh thiếp của ông". Ông Quan ngạc nhiên không hiểu lúc này Ngô Đình Cẩn còn muốn có danh thiếp của mình để làm gì. Nhưng chiều ý, ông vẫn lấy danh thiếp đưa cho Ngô Đình Cẩn.
Ông Cẩn lấy bút viết vào phía sau danh thiếp: "Xin hết lòng đa tạ" và viết tên Ngô Đình Cẩn. Đưa lại danh thiếp cho luật sư, Ngô Đình Cẩn dịu giọng nói: "Tôi xin gửi lại chút này để cám ơn luật sư đã hết lòng biện hộ cho tôi". Luật sư Quan bối rối: "Thật sự tôi có giúp được gì cho ông đâu, họ vẫn xử tối đa". Ông Cẩn khẽ lắc đầu, gượng cười: "Vấn đề không phải ở đó. Viết mấy chữ này, tôi muốn tỏ lòng tri ân đối với người luật sư không từng quen biết, nhưng đã tận tình và can đảm nói lên giữa phiên tòa những gì tôi muốn nói". Rồi Ngô Đình Cẩn lại bình tĩnh trò chuyện, lấy giấy cuốn thuốc lá theo kiểu sâu kèn, phì phèo hút, rồi lại têm trầu nhàn nhã nhai bỏm bẻm. Ông Quan đứng dậy cáo từ cố giữ nét mặt bình thường. Ngô Đình Cẩn bắt tay luật sư Quan rất chặt và rất lâu, đồng thời luồn bàn tay trái xuống gầm bàn, nhìn xuống đó ra hiệu. Ông Quan thấy bàn tay trái của Ngô Đình Cẩn xòe ra 5 ngón như thể báo hiệu rằng chiều nay vào lúc 5h ông sẽ bị hành quyết. Sau này, mỗi khi nhớ lại vụ hành quyết Ngô Đình Cẩn, luật sư Quan vẫn tỏ thái độ kính trọng, khâm phục một con người biết cái chết đang đến với mình từng giờ, từng phút mà vẫn ngồi nói chuyện bình tĩnh hàng tiếng đồng hồ. Cũng phải nói thêm rằng, sau ngày Ngô Đình Cẩn bị hành quyết đã có nhiều tin đồn rằng Ngô Đình Cẩn khi chết đi để lại rất nhiều của cải cho nhiều người thừa hưởng. Ngay chuyện Ngô Đình Cẩn bảo đại úy Nguyễn Văn Minh giao số vàng, đôla, kim loại quý cho tướng Đỗ Cao Trí giữ là "2 bao"... nhưng thực chất đó cũng chỉ là những lời đồn thổi vì chính đại úy Minh cũng không biết có bao nhiêu vàng và tướng Trí khi nhận túi vàng, valy tiền cũng không kiểm đếm. Tuy nhiên, theo điều tra của các nhà báo về sau thì số bất động sản do Ngô Đình Cẩn giao cho người khác đứng tên không phải là ít. Năm 1989, tướng ngụy quyền Trần Văn Đôn có viết cuốn hồi ký "Việt Nam nhân chứng", và khi nói về cái chết của Ngô Đình Cẩn, ông ta viết như sau: "Vài tháng sau ngày chỉnh lý, tướng Nguyễn Khánh có phái đại tá Lâm Văn Phát thông qua bà Trần Trung Dung và nhờ chuyển lời nói với ông Cẩn rằng, hãy chuyển số tiền 6 triệu USD mà ông Cẩn có trong một ngân hàng Thụy Sĩ cho tướng Nguyễn Khánh. Đổi lại tướng Khánh sẽ cho một chiếc phi cơ đưa ông Cẩn đi Singapore. Bà Trần Trung Dung yêu cầu đừng ghi âm khi bà ấy vào khám hỏi ông Cẩn. Sau khi nghe bà Dung trình bày, Ngô Đình Cẩn không chịu giao số tiền đó cho ông Khánh, rồi hỏi bà Dung có cần lấy thì ông giao cho. Lúc đó bà Dung sợ liên lụy nên không dám nhận. Mấy ngày sau, nhân dịp một vị linh mục vào làm lễ cho ông Cẩn, ông đã ký giấy ủy quyền cho nhà dòng Cứu Thế số tiền đó. Giấy ủy quyền được để trong một cuốn kinh Thánh...". Như vậy, xem ra sự kiện Ngô Đình Cẩn có mấy triệu đôla là có thể tin được. Nhưng thực sự chuyện Ngô Đình Cẩn chuyển 6 triệu đôla cho nhà thờ cũng có thể rất khó xảy ra, bởi lẽ với một số tiền lớn như vậy không thể cầm tờ giấy ủy quyền có mấy chữ rồi ký tên cho người khác đi lĩnh, đặc biệt đối với các ngân hàng nước ngoài. Ngay linh mục Lê Văn Thí cũng khẳng định là chẳng làm gì có số tiền đó. Sáng 9/5, các nhà báo sau khi dự buổi hành quyết Phan Quang Đông tại Huế thì vội vàng ra máy bay về Sài Gòn. Buổi tử hình Phan Quang Đông diễn ra rất ghê rợn. Vợ Phan Quang Đông đang bụng mang dạ chửa sắp đến tháng đẻ, đã ngất lịm ngay tại pháp trường khi chứng kiến cảnh chồng bị trói vào cọc... Sau khi làm các thủ tục về giấy tờ, Các nhà báo có mặt ở Bộ Thông tin từ lúc 14h. Và được đưa tất cả lên chiếc xe 18 chỗ đi vào Khám Chí Hòa. Tới cổng khám, ở trạm gác thứ nhất, nhân viên yêu cầu khám xét hành lý và thu giữ lại tất cả máy ảnh. Chụp ảnh buổi hành quyết chỉ có 3 người của Bộ Thông tin và nhân viên của an ninh quân đội. Sau đó các nhà báo được dẫn ra một sân rộng đầy cỏ cây hoang dại và có chôn sẵn một chiếc cột gỗ và trường bắn nằm gần một ngôi chùa nhỏ. 5h chiều, các thủ tục cho buổi hành quyết Ngô Đình Cẩn được bắt đầu tại phòng làm việc của trung tá Phạm Văn Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa. Những người có mặt tại đây là đại tá Trang Văn Chính, Giám đốc cảnh sát đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn; thiếu tá Nguyễn Văn Đức, Chưởng lý Tòa án quân sự; bà cả Lễ là chị ruột Ngô Đình Cẩn; luật sư Võ Văn Quan và một số người khác nữa. Đoàn người đến thẳng phòng giam của Ngô Đình Cẩn và lặng lẽ bước vào.
Ông Cẩn cầu nguyện cùng với một vị linh mục đứng cạnh giường đọc kinh Nghe tiếng giày, Ngô Đình Cẩn đang nằm trên giường hé mắt nhìn rồi khép lại, miệng lầm rầm cầu nguyện cùng với một vị linh mục đứng cạnh giường đọc kinh. Bóng đèn điện từ trên trần nhà tỏa sáng một màu ánh sáng vàng vọt, thê lương. Thiếu tá Đức đến bên giường, đọc bản bác đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn. Khi Nguyễn Văn Đức đọc xong, luật sư Quan đến bên ông Cẩn nắm lấy hai bàn tay. Tay Ngô Đình Cẩn nóng hổi, mặt ửng hồng và rõ ràng đang sốt rất cao. Luật sư Quan cố gượng nói: "Thôi ông cố vấn đừng quá đau buồn. Trên cõi đời này dù sớm hay muộn rồi ai cũng phải ra đi”. Ngô Đình Cẩn điềm tĩnh: "Luật sư đừng có buồn cho tôi. Tôi đi theo mấy ông anh của tôi. Tôi trở về với Chúa. Tôi không sợ chết đâu. Nhưng tôi lo cho luật sư, lúc cãi cho tôi, luật sư có đụng chạm tới họ. Không biết luật sư ở lại có bị họ làm khó dễ hay không". Luật sư Quan ứa nước mắt: "Không sao đâu, ông cố vấn đừng lo cho tôi. Xin cầu chúc ông cố vấn được vào nước Chúa". Thủ tục tiếp theo là vị linh mục làm lễ và cầu nguyện cùng ông Cẩn. Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam (ngày ấy chính quyền Ngô Đình Diệm quy định "quốc phục" của Việt Nam Cộng hòa là quần trắng, áo dài đen, đội khăn xếp). Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. Rồi cho ông cũng nói với mọi người là ông tha thứ những người đã giết ông. Yêu cầu của Ngô Đình Cẩn được đáp ứng, những viên cai ngục giúp ông thay quần áo. Rồi thiếu tá Nguyễn Văn Đức ra lệnh cho 2 nhân viên xốc nách dìu ông Cẩn ra khỏi phòng giam và xuống cầu thang. Vì Ngô Đình Cẩn không thể đi được, nên người ta phải đặt ông lên một chiếc băng ca và đẩy đi suốt hành lang này qua hành lang khác. Ra khỏi khu "lò bát quái", Ngô Đình Cẩn được chuyển sang một băng ca khác do 4 người cai ngục khiêng, chiếc băng ca được khiêng ra giữa sân có cắm một chiếc cọc thì cả đoàn người dừng lại... Thiếu tá Đức ra lệnh cho đám cai tù xốc nách đỡ Ngô Đình Cẩn dậy, dìu ra cột. Khi Cẩn được dìu tới cột gỗ thì một người lính trong đội hành quyết nói nhỏ với Cẩn là xin phép được trói hai tay ra đằng sau, hai tay được đặt lên một thanh ngang giống như cây thánh giá mục đích là để người bị tử hình không tụt được xuống. Một người lính cai ngục lấy chiếc khăn đen bịt mắt tử tội thì Ngô Đình Cẩn lắc đầu liên tục và nói: "Tôi không chịu bịt mắt. Tôi không sợ chết". Nhưng người ta vẫn buộc khăn vào một cách vụng về, vì vậy không chỉ bịt mắt mà bịt gần hết khuôn mặt ông Cẩn .
(Hình ông NDC sau khi bị xử Bắn) Đội hành quyết có 10 người và đội mũ lính quân cảnh có in 2 chữ MP, chia làm 2 hàng. Hàng trước 5 người quỳ, hàng sau 5 người đứng. Trong 10 người thì có 1 người được sử dụng khẩu súng mà trong đó lắp 1 viên đạn mã tử (không có đầu đạn mà chỉ bịt giấy). Đúng 18h20, phút hành quyết đã tới, Nguyễn Văn Đức giơ tay ra lệnh thi hành. Viên sĩ quan chỉ huy đội hành quyết hô lớn: “Bắn!". Một loạt súng nổ, Ngô Đình Cẩn giũ người xuống ngay lập tức. Máu từ trên ngực chảy loang xuống chiếc quần trắng. Ngay sau đó viên chỉ huy đội hành quyết chạy đến gí khẩu súng colt 12 ly vào tai Ngô Đình Cẩn và bắn phát ân huệ. Bác sĩ pháp y chạy ra dùng ống nghe gí vào ngực Ngô Đình Cẩn nghe ngóng, vạch mắt ra xem, rồi quay lại gật gật đầu ra ý là Ngô Đình Cẩn đã chết. Trung tá Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa ra lệnh cho mấy viên cai ngục cởi trói hạ xác Ngô Đình Cẩn đặt vào băng ca rồi khiêng vào Khám Chí Hòa để khâm liệm và cho thân nhân nhận xác mang về chôn cất. Xác Ngô Đình Cẩn được đưa về an táng tại nghĩa trang chùa Phổ Quang, tức nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế gần sân bay Tân Sân Nhất. Sở sĩ gia đình an táng Ngô Đình Cẩn tại đây là vì Thượng tọa Thích Chí Dũng là người thân quen với gia đình họ Ngô. Sau năm 1975, khi quy hoạch lại TP HCM nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế ở chùa Phổ Quang được di dời về Lái Thiêu. Mộ Ngô Đình Cẩn cũng được đưa về đó nằm cạnh mộ của thân mẫu và 2 người anh là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu Như Phong -------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Có chi tiết này : "...mũ lính quân cảnh có in 2 chữ MP" cần được xem lại. Theo tôi biết, MP là chữ viết tắt của Military Police và chỉ dùng cho quân cảnh Mỹ ở VN lúc ấy, quân cảnh VNCH thì đội mũ có chữ "QC" (Quân Cảnh) chứ không phải MP
Trả lờiXóa