Người Chiến Sĩ VNCH ngày cuối cùng của cuộc chiến
Canh bạc chưa chơi mà
hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua(*)
Cờ còn nước đánh phải đành thua(*)
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng
không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng
cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ.
Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vàokhoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung
Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng
ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe
tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman
“ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và
hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến
biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch
Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại
cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù
và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham
Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29
tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu
Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho
các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải
ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh…
Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những
đơn vị lẻ
tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.
tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.
Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những
người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị
lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30
tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người
lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang
thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn
đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn
toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ
biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao
giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn
sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ.
Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với
tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng
sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long
và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân
tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm.
Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt,
loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của
thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng
Sản ở trong xe tăng.
Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị
Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án
ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác
hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh
về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu
tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong
khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở
đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả
hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích
thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù
và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường
nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ
ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về
nhà.
Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương
Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới
chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt
thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử.
Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì
thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ
huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn
tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH
đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh
buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi
gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự
tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba
Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng
500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến
xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng
của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản
(tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana,California ngày 30
tháng 10, 1998)
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng
trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt
từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm
chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và
điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự
giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi
bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên
má…
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975,
bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy
Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không
phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng
được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và
vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà
chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng
ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái
tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử
trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ
chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn
những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có
những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn
thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta.
Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”
4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến
những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75
Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của
họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và
không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ
còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola . Họ không nuôi một ảo
tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm
tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát
của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở
bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra
sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính
cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải
vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh. ”
Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được
chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi
lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ
30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc
gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu.
Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc
nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là
vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy
tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH,
tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng,
các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi
thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay
trắng.”
Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất
quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ
quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng
tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản!
“…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ
Đức và Biên Hòa… Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này
chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc
Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn
giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh,
sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn.
Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần
trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100
cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng
Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4
người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến
khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một
tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận
Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ
chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho
lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…”
Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét