|
Từ Đắng Cay Hậu Chiến...
Trang
Đài Glassey - Trần Nguyễn
Nhân
Tháng Tư Đen năm thứ 37, từ nay mỗi cuối tuần, Viết Về Nước Mỹ sẽ là loạt bài
đặc biệt do tác giả Trangđài Glassey-Trầnguyễn thực hiện trong Dự án “Tháng
Tư Đen, Tháng Tư Sáng” về những ảnh hưởng của tang thương và mất mát trên đời
sống tình cảm của người Việt hải ngoại qua sự bảo trợ của tiểu bang
California cho Chương trình Báo chí về Y tế Sức khỏe (CEHJF), và do Trường
Báo chí và Thông tin Annenberg của Đại học University of Southern California
tổ chức. Cô sử dụng phương pháp lịch sử truyền khẩu, cùng kinh nghiệm dấn
thân cộng đồng, và tư duy trải nghiệm.
This
project “Black April, Bright April” © is produced using oral history,
community participation, and lived perspectives. Trangđài Glassey-Trầnguyễn
reporting on trauma, loss, and emotional health in the Vietnamese diasporas
was undertaken as part of the 2011-12 California Endowment Health Journalism
Fellowships (CEHJF), a program of the University of Southern Californias
Annenberg School for Communication & Journalism.
CHỦ TRƯƠNG CỦA NGƯỜI THỰC HIỆN:
Từ năm
1976 đến nay, mỗi Tháng Tư là một thời gian hồi tưởng, truy niệm chung cho
người Việt hải ngoại. Qua dự án này, tôi muốn quy nhận truyền thống tưởng
niệm này của Cộng đồng người Việt hải ngoại. Đồng thời, tôi cũng muốn đón
nhận và đưa lên giá cao những ngọn đèn đã làm cho Tháng Tư 1975 không chỉ còn
là một ngày của bạo lực và mất mát. Chúng ta đã xây dựng những Tiểu Việt Nam
khắp dọc dài thế giới. Chúng ta đã nuôi dạy nhiều thế hệ trẻ thành nhân tài
xứ người. Chúng ta đã xoay ngược thế cờ, dùng sức mạnh của thế giới và tư duy
đương đại để gìn giữ lịch sử và phát triển tương lai. Những ngọn đèn đó vẫn
tỏa sáng giữa chúng ta – là chính ông bà, cha mẹ, anh chị em, con cái của
chúng ta – đang thắp lên một bình minh mới trên những đổ nát hôm qua. Chúng ta
không chỉ có một Tháng Tư Đen, mà chính mỗi chúng ta cũng là hiện thân của
một Tháng Tư Sáng.
PHẦN 1(4): MƯỜI BA NĂM KHỔ SAI
Những
ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho rất
nhiều gia đình tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người, những ngày
ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là một thế kỷ của
nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ.
Cái
giai đoạn lịch sử ấy – tuy man rợ và đầy tang thương – nhưng vẫn là một di
sản được những người trong cuộc ôm ấp và gìn giữ. Bởi vì, cái lịch sử ấy
chính là một dấu chứng cho niềm tin vào điều thiện và sự vượt qua của những
ai còn sống sót sau kinh nghiệm hỏa lò. Đó có lẽ là lý do mà khi đến Mỹ, Cựu
thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đã mang theo 3 vật rất quan trọng đối
với mình. Một đôi găng tay may từ vải vụn, bà đã dùng trong thời gian 13 năm
tù cải tạo. Hai chiếc áo tù – một bằng vải thô, và một bằng len, do chính bà
đan lại từ hai chiếc áo lạnh cũ đã chật của hai con gái, do mẹ bà gửi vào. Và
một cơ thể đã bị phá hủy, thương tật.
Nhưng
bà cũng mang theo một gia tài quan trọng hơn cả những vật chứng này – một gia
tài không ai có thể tịch thu, đấu tố, hay phá hủy: một ý chí để sống, một
nghị lực phục vụ gia đình và xã hội, và một niềm tin mãnh liệt vào Chúa.
Chính gia tài này đã là cứu cánh cho bà trong suốt 13 năm tù, và quãng đời
sau đó.
Trên
hai chiếc áo tù đó, số tù – cũng là 'nhân diện' của bà trong mười ba năm khổ
sai – đã bắt đầu phai nhạt theo năm tháng. Nhưng những đau đớn về tinh thần
lẫn thể xác vẫn còn hằn sâu. Có lẽ những thế hệ một và một rưỡi còn nhớ và
biết cái bi kịch hỏa lò tại Việt Nam, nhưng thế giới và những thế hệ Việt
ngoại biên vẫn cần một văn khố chính thức về bi kịch này.
Điều
quan trọng là chúng ta không để cho những sự thật về bi kịch này phai nhạt –
như những số tù trên áo những người tù khổ sai năm nào. Chúng ta cần ghi lại
những đau thương – không vì hận thù – nhưng vì để đấu tranh cho Công lý, Hòa
bình, Tự do, Bác ái. Đến bao giờ, người Việt hải ngoại mới có một tác phẩm
như Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr Solzhenitsyn, người đoạt giải Nobel Văn
Chương 1970 với những tác phẩm vạch trần cái hỏa lò của Cộng Sản Xô Viết?
Những quần đảo ngục tù vẫn còn hoành hành trên cơ thể của nhiều con dân Việt
và ngay trên đất Việt qua những hậu quả khốc liệt của nó. Đến bao giờ chúng
ta mới có một Solzhenitzyn của Việt Nam? Vì nếu những đau thương này đã đến
từ bất công, thì chúng cũng là một mối đe dọa cho con người ở tất cả mọi nơi
– như nhà tranh đấu dân quyền Martin Luther King đã nói, "Bất công ở bất
cứ nơi nào là bất công ở khắp mọi nơi." Xã hội con người không tách rời
nhau bởi biên giới hay ngôn ngữ, mà cộng thông trong lý tưởng công bằng, bác
ái, và dân chủ.
Chiếc
áo tù ngày nào, tuy nay không còn ấm lạnh trên người Nguyễn Thanh Thủy nữa,
nhưng kinh nghiệm mười ba năm tù khổ sai là một chiếc áo đầy gai, vẫn châm
chích và làm đau đớn tâm hồn và thể xác bà. Hai mươi bốn năm sau khi ra khỏi
trại tù, bà vẫn còn oằn oại trong những bệnh tật do giai đoạn oan nghiệt này tạo
ra, và những kinh hoàng của bốn tháng biệt giam vẫn bám riết tâm trí bà.
Chúng ta thử cùng bà ngồi trước màn ảnh của quá khứ, chứng kiến lại những
điều mà trước nay bà chưa nói được với ai, vì nó quá kinh hoàng và khó khăn
để thuật lại.
Nguyễn
Thanh Thủy nhớ lại, “Vài hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến nơi
làm việc của Ủy Ban Quân Quản của chế độ Cách Mạng (tức Văn Phòng Khối Đặc
Biệt, đường Cộng Hòa cũ) để hỏi cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cán Bộ
Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm tôi luôn, nhưng vì các con tôi còn quá nhỏ,
nên mỗi ngày tôi đến đây làm việc rồi về. Họ cho tôi xấp giấy, cây viết, và
muốn tôi viết lại quá trình hoạt động. Mỗi ngày tôi chỉ viết lý lịch của
mình, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng lòng. Tôi có cho họ biết là tôi không
nhớ gì cả, và yêu cầu họ cho tôi thời gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ
giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi vòng quanh khối Đặc Biệt, vào những phòng làm
việc của Khối để nhìn từng nơi xem thấy cái gì còn, cái gì mất. Tôi chú ý đến
Văn phòng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi còn những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt
động, những bản thuyết trình có ám danh công tác, bí số nhân viên, nhưng
không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ trong đầu một kế hoạch để đối phó với Cộng
Sản khi bị hỏi cung.”
Nguyễn
Thanh Thủy không chỉ là một người tù cải tạo. Bà còn là vợ một người tù cải
tạo. Chồng bà, Cựu Đại Tá Võ Bị Lê Thành Long, cũng vào tù sau ngày 30 tháng
Tư 1975. Ba người con nhỏ của ông bà được gửi gắm lại cho ông bà Ngoại tại Mỹ
Tho. Tuy nhiên, những cố gắng để kéo dài thời gian hỏi cung của bà cũng không
giúp bà được ở gần gia đình mãi. Đến 15 tháng Sáu, 1975 thì bà bị tập trung
vào tù cải tạo. Theo lời bà, thì “Tôi ở chung trại với tù cải tạo nam, học
tập chính trị ở hội trường, học quốc ca của Cộng Sản và những bài hát đấu
tranh chống Mỹ Ngụy, làm những bài thu hoạch, phê và tự phê, kiểm điểm, nộp
cho họ. Tất cả mọi người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều có tội
nhiều hoặc ít. Đó là cách luận tội của Cộng Sản. Tôi vào trại tù cải tạo Long
Thành, với một túi xách đeo vai, một chiếc chiếu nhỏ cho một người nằm. Thiếu
đủ mọi thứ. Tôi phải xuống hố rác cạnh dãy nhà chúng tôi ở, để tìm chai, lọ,
mấy tấm tôn để đựng nước, đựng cơm, thức ăn… Nước chỉ đủ uống, không đủ tắm.
Trời tháng sáu mưa dầm dề. Chờ trời mưa, tôi gội đầu tắm giặt nhờ những dòng
nước mưa chảy theo mái nhà.”
Trong
suốt thời gian bị giam một mình, bà đã canh cánh sợ bị bọn võ trang muốn làm
hỗn nên không bao giờ dám chợp mắt, đã nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm khi cai ngục
lẻng kẻng xâu chìa khóa đâu đó giữa rợn rùng thăm thẳm tối. “Vì đêm trước có
ai bị đưa đi, thì sáng hôm sau coi như mất tích,” bà nói. Hơn nữa, phương
tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không có. Bà hồi tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện
bằng những cầu dã chiến ngoài trời, mưa dầm là nó lầy lội, và những con vòi
trắng lềnh bềnh mà nữ thì làm sao dám ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín,
nhịn khát, đợi tối mới ra cái nhà tắm che bằng bốn vách lá, đi xong cho vào
hố rác. Nhớ tới cảnh này, tôi luôn rùng mình, sao tôi chịu nổi dơ bẩn như
thế.”
Bà nói
tiếp, “Đầu tháng 10 năm 1975, tôi bị chuyển về trại giam Thủ Đức (tức 16NV).
Chỉ có một người nữ bị chuyển là tôi. Tôi ở một mình trong phòng giam và bắt
đầu các cán bộ thẩm vấn, điều tra từ trung ương đến. Tôi bị kêu lên đêm có,
ngày có, bị hỏi liên tục, hỏi xong rồi bắt viết, thu bài. Những tháng ngày
này, đầu óc tôi quá căng thẳng. Cả đêm không buồn ngủ, tựa lưng vào vách
tường, kê túi quần áo và gối nằm để làm điểm tựa viết bài họ điều tra.”
Bà nhớ
lại, “Tôi phải cải tạo khổ sai ở đây nhiều
năm, không đủ vệ sinh và thiếu thốn. Ăn thì độn khoai mì có vỏ đỏ quấy, gọi
bột ngàng phệt, hột bo bo, mì sợi luộc có cả con chuột chết vớt ra bỏ đi, lại
tiếp tục chia mì sợi cho người một phần để ăn, không thì đói. Cả ngày cuốc
xới mỏi mệt, tối đến vào phòng ngủ gần người lao phổi (xuất huyết phổi tới
thời kỳ chót), bệnh giang mai thời kỳ thứ ba, phổ có nước thời kỳ chót. Tôi
phải sống chung với họ cho tới khi họ được tha, và không bao lâu thì họ chết.
Tôi phải may những nệm ngồi bằng vải vụn riêng để tránh lây nhiễm. Lúc ngủ,
các bạn khỏe xếp gần nhau, chừa một chiếu cách người bệnh, xây đầu khác hướng
với người bệnh và xây lưng về phía người bệnh để tránh lây nhiễm.”
Vì
Nguyễn Thanh Thủy đã giữ một vai trò khá quan trọng khi phục vụ dưới chế độ
Việt Nam Cộng Hòa, bà đặc biệt bị quản lý nghiêm ngặt và tra khảo liên tục,
làm bà chóng mặt, căng thẳng đến ngã bệnh. Cán bộ không bao giờ rời mắt khỏi
bà, ngay cả về đêm. Bà kể, “Tôi là người tù bị
chỉ định nằm ngay cửa ra vào hoặc ngay cửa sổ phòng tù để họ dễ kiểm soát
hành vi về đêm của tôi. Cửa sổ tù không bao giờ có cửa để đóng lại, nên rất
lạnh. Đêm đêm đói bụng quá, các bạn tù kể món ăn này, món ăn kia cho đỡ thèm
đỡ đói. Nhớ chồng con kể chuyện hạnh phúc ngày nào thì có bà lên tiếng, kêu
đừng kể nữa, vì rờ hai bên toàn chiếu không. Tới ngày thăm nuôi được gặp thân
nhân gia đình, là lúc lấy dạ dày an ủi trái tim.”
Trong
hoàn cảnh lao tù khổ sai, người nữ tù chịu nhiều khó khăn và khổ sở hơn người
tù nam, nhất là về phần vệ sinh hằng tháng, và sự an toàn bản thân. Không chỉ
những nữ tù cải tạo mới bị dòm ngó và hãm hiếp, mà những phụ nữ bị bắt vì
vượt biên cũng bị lính gác bạo hành về tình dục. Sự căng thẳng của người tù nữ,
vì vậy, cao gấp nhiều lần so với bạn tù nam. Bà lại kể, “Trại giam có nước máy, nên vệ sinh cá nhân cũng đỡ,
nhưng vấn đề phụ nữ hằng tháng, không có băng giấy, tôi phải dùng quần áo cũ
xé ra để lót, rồi giặt không xà phòng (vì không được thăm nuôi). Ăn uống, mỗi
buổi sáng được một ly nước nóng, trưa một phần khoai độn, buổi chiều nửa chén
cơm, một chút rau muống luộc với nước muối. Lễ lớn có một miếng thịt bằng
ngón tay. Hơn một năm, một số tù cải tạo chuyển đi Bắc, một số tù cải tạo ở
nơi khác chuyển tới, lúc đó mới có một số chị em phụ nữ ở trại Long Giao,
trại giam Chí Hòa, Phan Đăng Lưu tới. Đa số là tù phản động. Tôi mới thoát
cảnh ở một mình mà sống tập thể với bạn tù cũ, bạn tù mới. Tôi bắt đầu đi lao
động, làm cỏ chung quanh trại giam, và trồng rau muống.”
Cảnh
lao động vất vả của trại tù, dù sao, cũng cho người tù cơ hội được thấy ánh
sáng mặt trời, mà không bị vây hãm gò bó giữa bốn bức tường bức bối. Nhưng
trồng rau bằng phân người và nước tiểu người là những cực hình mà người tù
phải gánh chịu, và ăn rau do chính mình trồng nhưng không được rửa sạch làm
cho người tù bị tiêu chải kinh niên. Nhu cầu nha chu hay y tế căn bản cũng
không được đáp ứng, nên bạn tù phải mượn kềm của tù nam hình sự, khi họ về ăn
cơm trưa trong một tiếng, để nhổ răng cho nhau, khi răng đã hư quá nặng và
không thể giữ được. Họ phải cầm máu bằng nước muối, vừa rát, vừa đau.
Bà kể
tiếp,
“Hai
năm sau, tức tới tháng Bảy, 1977, chúng tôi chuyển lên trại tù cải tạo Căn Cứ
5 Rừng Lá, tức trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Đã di chuyển xa, nên việc phải
gặp chấp pháp ít hơn, vài ba tháng một lần. Mà chủ yếu là lao động, cả đội
mấy chục cô cầm cuốc, cầm xẻng, thùng tưới nước, chia nhau công tác để làm.
Mới đầu chẳng biết cuốc, cả ngày trời cuốc một khoảng cỏ trước sân cơ quan mà
thấy vẫn y nguyên. Lần lần gánh tranh, trồng rau muống, khoai lang, củ cải.
Rau tưới bằng một lon nước tiểu pha một thùng nước suối, phân người bỏ dưới
rãnh, lấp đất, trồng rau lên.
Tôi yếu
sức nên đứng múc nước tiểu, pha cho người khỏe trẻ tưới. Cả ngày làm lao động
mệt, chiều hết giờ chạy về bờ suối tắm 20 phút, vừa giặt giũ vừa tắm, không
có quản giáo nữ canh gác. Cán bộ nam và võ trang canh gác khi đội nữ tắm. Bọn
cai tù nói, “Các chị cứ coi chúng tôi như các chị, cứ thế mà tắm.” Thật là
trơ trẽn. Chúng tôi cứ nhúng cả người xuống nước rồi lên giống như vịt rỉa
lông. Những ngày mưa, nước suối đục ngầu, vẫn phải tắm, vì nước tiểu và phân
dính cả người. Tới mùa nước suối cạn, bọn Cộng Sản chuyển đội nữ về lại trại
cải tạo Long Thành. Nơi đây là trại hình sự, máy nước bị hư, không tiền sửa
chữa. Mỗi ngày phát một gô nước uống, một tuần lễ mới ra suối cạn tắm một
lần, giặt giũ rồi xách nước về. Về tới trại rửa cát bụi đi đường là thấy hết
sô nước. Trại này trồng táo Thái Lan, dền, rau muống, cũng dùng nước tiểu,
phân người làm phân bón. Chỉ trồng táo mới tưới bằng phân urê.”
Nhưng
sau đó, bà bị chuyển trại, và bị đưa vào biệt giam hơn một năm để hỏi cung.
Đây là gian đoạn gian nan nhất trong thời gian mười ba năm khổ sai của bà.
Tuy nhiên, bà vẫn luôn giữ trong đầu một điểm đến: cố sống sót, đối diện với
nghịch cảnh, để có ngày đoàn tụ với con. Bà ôn lại, “Ăn thiếu thốn, đói khát,
bị vây quanh mấy tên cán bộ chấp pháp, tôi muôn điên lên vì thần kinh quá
căng thẳng. Tôi sẽ gặp đau thương khi đối đầu với địch nên trước ngày cuối,
để bảo mật, tôi đã hủy hồ sơ của Biệt đội Thiên Nga. Tôi cũng được bọn Cộng
Sản đưa đi xem các văn phòng có liên hệ. Nhưng tôi vẫn lo lắng cho các nhân
viên. Tôi muốn bảo toàn cho các bạn nữ đồng khóa, các nhân viên, và cộng tác
viên. Tôi tâm niệm trong lòng mỗi lần phải gặp mặt cán bộ, tôi đều thầm nhủ
đây là địch, đây là Việt Cộng, làm cho tôi thêm nghị lực, bình tĩnh hơn, mạnh
dạn hơn để trả lời. Tôi ở biệt giam một mình hơn một năm, vì phải làm việc
bằng đầu óc, trại giam gọi là động não quá nhiều, ăn uống thiếu thốn, ngủ nền
xi-măng, tôi bị liệt một chân, phải lần vách. Tôi mới xin lau chùi quét dọn
hành lang và xin phơi nắng nửa giờ mỗi ngày trừ thứ Bảy và Chủ Nhật. Tôi tập
giật chân kinh và tự xoa nắn lấy chân bị liệt teo cơ do suy dinh dưỡng gây
ra. Tôi tự nhắn nhủ, không nhớ con nhiều nữa, phải rán chịu đựng mọi khó khăn
để có sức khỏe trở về với con.”
Thời
gian biệt giam này đã dài như thế nào? Những chi tiết về gian đoạn này sẽ
khiến nhiều người không thể tưởng tượng ra được, bà Nguyễn Thanh Thủy đã làm
thế nào để sống sót. Bà nói,
“Tháng 4 năm 1981, tôi bị đưa từ trại tù cải tạo Long Thành
về trại tù biệt giam X4 (Bộ Công An Cộng Sản đường Võ Tánh, Sàigòn). Tôi ở xà
lim, chung quanh tối om, ngoài một bóng đèn điện cho cả dãy xà lim, mỗi xà
lim có một khoảng trống bằng một cục gạch trên sát trần nhà để thở. Trời
tháng Tư ở Việt Nam, nóng bức, mồ hôi chảy như tắm, quần áo vo cao cho bớt
nóng. Tuần lễ đầu tiên tôi bị xỉu, thiếu dinh dưỡng, thời tiết quá nóng. Cán
bộ trại giam phát hiện do người ở cạnh xà lim đập tường hỏi thăm sức khỏe,
không thấy tôi trả lời, họ đập tường gọi cán bộ cấp cứu. Sau lần cứu tôi tỉnh
dậy, trại giam đưa một lọ thuốc tim nhỏ giọt để khi mệt nhỏ vào miệng và gọi
cấp cứu.
Về ăn
uống, sáng để gô ra, họ cho một gô nước nóng. Trưa và chiều để ít cơm trong
cái thau và một chén canh ngoài song sắt xà lim, rồi tự mình mang cơm canh
qua song sắt để ăn. Phải kiếm thế nghiêng thật nhanh, mang tất cả cơm canh
vào. Vì không có muỗng, nên phải ăn bốc bằng tay.
Lúc mới
tới, Cán Bộ chấp pháp cho biết tôi sẽ được ăn tiêu chuẩn quốc tế, dành cho
người về làm việc, ngày 3 lần: sáng, trưa, chiều. Nhưng tôi chưa bao giờ nhận
được buổi ăn nào như thế. Các tù nhân đi với Cán Bộ trại giam giao phần ăn
không được mặc áo, phải ở trần và bận quần xà lỏn (quần đùi), họ không được
nói bất cứ lời nào. Muốn hỏi gì, họ chỉ tay về phía Cán Bộ, người Cán Bộ mới
có quyền nói chuyện với tù nhân.
Về phần
vệ sinh cá nhân, mỗi ngày được tắm một lần, 20 phút. Tù không bao giờ gặp mặt
nhau, cứ người này tắm xong, mới mở cửa phòng khác cho tù ra tắm. Tiểu tiện
đi vào thùng sắt đựng đạn của Mỹ, cứ đi tắm mang ra đổ, rửa sạch dùng lại.
Đưa tôi
về nơi này, bọn Cán Bộ chấp pháp làm áp lực để tôi viết cam kết, với chồng hồ
sơ thu thập được của nhân viên Thiên nga, cấp chỉ huy, bạn bè để trước mặt,
cho thời hạn suy nghĩ là 3 ngày. Trên đường trở về xà lim, tôi nhờ chấp pháp
trình lại với lãnh đạo của họ, 6 năm tù cải tạo đủ để suy nghĩ, không cần
thêm 3 ngày. Tôi trả lời: Không, không bao giờ.
Thế là
tiêu chuẩn ăn hàng ngày bị giảm đến mức tối thiểu, chỉ còn một chút cơm với
vài hột muối hột. Thời gian này, bệnh nặng không được chữa, có lần ói từ nửa
đêm đến sáng. Khi họ kiểm tra thấy nằm ói toàn mật xanh, Bs y tá tới, cho
thuốc uống liền tại chỗ. Người y tá đưa thuốcd nói thật nhanh, thật khẽ,
“Đừng uống.” Tôi vội nắm chặt thuốc trong lòng bàn tay, đưa tay giống như bỏ
thuốc vào miệng và vội vàng uống nước. Sau này, tôi gặp người y tá đó khi
khám sức khỏe đi Mỹ tại Bv Cảnh Sát. Người ấy mới kể, trước là y tá Bv Cảnh
Sát Quốc Gia VNCH, có thân nhân liệt sĩ, nên được giữ làm lại, biết tôi và
tránh cho tôi bị thuốc.
Họ giữ
tôi tại cơ quan X4 bốn tháng nhưng không khai thác được gì. Bọn chấp pháp đem
cán bộ nữ ra dụ dỗ vì thương con tôi, mới khuyên tôi cam kết để tha về. Tôi
khẳng định tôi về khi nào có chính sách của lãnh đạo nước, chứ về riêng lẻ
không bao giờ có. Thấy tôi kiên quyết không khai, bọn chấp pháp biểu tôi đứng
xa họ ba thước, nghe đọc lệnh án. Lệnh án có nội dung như sau: Do quyết định
ngày… tháng… năm, Tên Nguyễn Thanh Thủy có thái độ ngoan cố không chấp hành
cải tạo lao động nên tuyên án tập trung cải tạo tiếp 3 năm và quyết định có
hiệu lực vô thời hạn.
Hai
chân tôi bị nhốt ở xà lim, nên bị liệt không đi nổi. Trở lại xà lim, lấy quần
áo chiếu mền theo họ chở về trại tù cải tạo Long Thành. Trước khi lên xe, họ
đưa cái giỏ nhỏ nói là quà gia đình gửi. Sau này gặp chồng tôi, anh kể mấy
ngày trước khi tôi trở lại trại cải tạo Long Thành, họ đưa một miếng giấy có
chữ viết của tôi, vỏn vẹn, “Thăm anh và các con. Em vẫn khỏe mạnh.” Xong họ
dặn chồng tôi mua cho tôi ít quà khô. Họ biểu đem đến cổng. Anh không biết
chỗ, hỏi thăm gác cổng, họ bắt anh nhốt cho tới tối mới thả anh ra.
Sáng
hôm sau là tôi chuyển trại. Họ phải xách tất cả một xách quần áo, sô đựng vài
thứ linh tinh, một giỏ thức ăn. Vì tôi đi không nổi, mặt mày xanh xao, không
ánh nắng mặt trời bốn tháng, màu da vàng của người VN rất đúng không sai tí
nào. Nói đến hình phạt kỹ luật cho nữ, cái nhà kỹ luật là nhà có 2 lớp, giống
như cái hộp có hai lớp, một lớp là phòng giam nóc bằng, cách khoảng chừng 1
thước, lớp ngoài cũng xi măng cốt sắt.
Mỗi
phòng giam kỷ luật có một cái bệ. Cuối bệ có cây sắt thông ra ngoài để khóa
bằng ống khóa sắt. Trên cây sắt có những cái cùm. Cái bệ xi măng có một cái
lỗ để thùng đạn của Mỹ. Thùng trống không, làm chỗ tiểu tiện. Đặc biệt là kể
từ ngày vào phòng giam kỹ luật cho đến ngày ra không được tắm. Khôn được tắm
từ 1 tuần cho tới 3 tháng, 6 tháng, hay cả năm, chỉ những ngày kinh nguyệt
phụ nữ mới được 40 phút thay quần áo.
Tùy
theo hình thức phạt, đa số hai chân đều phải cùm lại, hỏng trên cái bệ, nên
rất đau đớn vì tê chân và sét ăn vào cườm chân. Muỗi đốt suốt ngày đêm, bóng
tối cả ngày đêm… Những hình thức này tôi đều trải qua, hằn sâu trong da thịt
tôi.”
Chính
thời gian biệt giam này đã gây ra nhiều tổn thương trên thân thể bà nhất, từ
việc bị bại liệt một bên người, phong thấp, các chứng bệnh đường ruột và tiêu
hóa, cho đến sự căng thẳng đầu óc đến cao độ. Từ việc bị giam trong phòng tối
cả ngày lẫn đêm, cho đến việc bị điều tra hỏi cung 24/24, cho đến việc bà bị
trừng phạt không cho ăn uống, chỉ có chút nước và ít muối hột, hay bị phạt
không được tắm, những ngày có kinh nguyệt bà cũng chỉ được 40 phút thay quần
áo rồi bị cùm lại – tất cả đã khiến bà rụng gần hết răng và cơ thể bà hoàn
toàn kiệt sức, không đứng được.
Tôi
thắc mắc, sau những đằng đẵng đói lạnh và lao động quá sức, không biết trong
những lúc quá cùng cực và bị bệnh thập tử nhất sinh, Nguyễn Thanh Thủy có bao
giờ cảm thấy tuyệt vọng không? Mười ba năm khổ sai đã cho bà nhiều kinh
nghiệm đắt đỏ và một cái nhìn thấu đáo về chế độ chính trị đang nắm quyền
trên quê hương bà. Và khi bà rời nhà tù nhỏ của trại Hàm Tân Z30, bà tiếp tục
bị dồn bức cho đến giây phút gia đình bà đứt ruột rời bỏ người thân và quê
hương để đi Mỹ qua diện H.O.
Bà kiên
trì, giữ vững tôn nghiêm của người lính, giữ tinh thần lạc quan. Cho nên “Cả 13 năm tù, tôi không muốn kẻ địch thấy giọt nước
mắt của tôi. Nên khó tìm thấy nét buồn, cho tới ngày em tôi lên trại, báo tin
Ba tôi mất, tôi xỉu ngay tại phòng thăm nuôi và tôi rơi nước mắt.”
Nhưng
dù không biết tương lai mình ra sao, Nguyễn Thanh Thủy vẫn luôn nghĩ đến
người khác, những người bạn tù của bà. Chính vì nghĩ đến người khác, nên ngay
từ đầu, bà đã không khai những bí mật Thiên Nga khi bị hỏi cung, mà mới bị
trừng phạt nặng nề và chịu nhiều tổn hại về sức khỏe. Đến những ngày cuối
cùng, bà vẫn giúp các bạn tù, “Mấy năm trước
ngày ra trại, tôi làm đội trưởng kỹ thuật may, chỉ cho các em hình sự án cao
biết may gia công để đỡ cuốc đất trồng rau cực khổ trong thời gian thụ án,
sau có tay nghề may.”
Là
người nữ tù cuối cùng rời trại cải tạo vì bị cho là ngoan cố, Nguyễn Thanh
Thủy rời tù nhỏ, về tù lớn của xã hội Việt Nam hậu 1975, với hai hàm răng đã
rụng, nên các con không dám tới gần bà. Con gái bà bảo, “Kỳ quá, Mẹ không có răng!”
Tôi tự
hỏi, đối với bà, đâu là nỗi đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau khổ về
thân xác trong trại cải tạo, hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa với gia đình
và con dại? Thời gian có xoa dịu được những nỗi đau này không? Hay mất mát sẽ
vĩnh viễn là mất mát?
Lần đầu
tôi phỏng vấn Cựu thiếu tá Nguyễn Thanh Thủy là từ thập niên 1990, cho Dự Án
Việt Mỹ (còn gọi là Vietnamese American Project, do tôi dùng tiền student
loans để sáng lập tại CSU Fullerton, và sau được sự hỗ trợ của Đại học Nhân
Văn và Khoa Học Xã Hội của trường và các tổ chức khác). Cho nên trong các
cuộc thuyết trình chuyên môn về người Việt hải ngoại tại các trường đại học
khắp nơi trên thế giới trong suốt gần hai mươi năm qua, tôi vẫn đặt câu hỏi:
Ai sẽ trả lại cho Nguyễn Thanh Thủy và gia đình bà 13 năm chia lìa vì tù ngục
cải tạo? Chứng từ của Nguyễn Thanh Thủy trong các cuộc phỏng vấn lịch sử
truyền khẩu mà tôi đã thực hiện với bà sẽ tiết lộ câu trả lời của bà cho
những câu hỏi này trong các kỳ tới.
Trang Đài Glassey - Trần Nguyễn
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét