VŨ ÁNH VÀ TÔI – CHUNG
MỘT ĐOẠN ĐỜI
(Xin gởi đến hương hồn anh Vũ Ánh
như một nén nhang tiễn biệt.
Và đến chị Yến Tuyết
như một lời chia buồn muộn màng)
Phạm Đức Nhì
Một Tâm Hồn Trẻ Trung
Sôi Nổi
Ngày đầu tiên bị giải đến Trại Trừng Giới A20 Xuân Phước, tất cả
chúng tôi – thành phần cứng đầu,
khó cải tạo từ các trại -bị
lùa vào hội trường để được dằn mặt và đưa vào khuôn phép. Mở đầu là màn văn
nghệ ca tụng đảng và nhà nước có tính cách bắt buộc. Cán bộ giáo dục yêu cầu
một người tù trong chúng tôi ra bắt giọng cho mọi người hát một bản nhạc cách
mạng để lấy khí thế. Hối thúc hoài cũng chẳng ai thèm ra. Cuối cùng, khi hắn
giở giọng đe dọa thì tôi nóng mặt đứng lên bắt nhịp cho anh em hát bài Việt Nam
Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức Quang. Được gãi đúng chỗ ngứa anh em hát
muốn bể tung hội trường. Cán bộ giáo dục và ban thi đua ú ớ chẳng biết gì nên
dù "ngờ ngợ có cái gì không ổn" cũng không làm chi được. Sau buổi
họp, mấy bạn trẻ như Tú Cường, Nguyễn Hữu Hồng ... đến bắt tay tôi tỏ vẻ đồng
cảm và ngưỡng mộ một hành động nhanh trí và can đảm, giữa đường thấy chuyện bất
bình thì phản ứng liền. Đám trẻ của chúng tôi là như vậy. Tôi bắt tay các bạn
một cách vui vẻ rất ... bình thường. Riêng anh Ánh, lúc ấy đã gần 40, vẻ mặt trí
thức, chững chạc đến vỗ vai, bắt tay tôi đã là ... đặc biệt rồi. Anh lại còn ôm
chặt tôi ra vẻ rất quý mến: "Tôi tưởng cậu hát nhạc của tụi nó nên đã muốn
chửi thề trong miệng, nhưng khi nghe câu hát đầu tiên tôi khoái quá, hát muốn
khàn cả cổ". Tôi với anh quen nhau, gần gũi nhau ngay từ hôm ấy. Sau này
ra hải ngoai anh còn viết bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ Của Nguyễn Đức Quang
Trong Nhà Tù Cộng Sản kể lại sự kiện này. Tôi có cảm tưởng ở cái tuổi của anh
lúc ấy, đối với một sự việc bình thường như vậy, thái độ "nóng máu muốn chửi thề" của anh, thật giống bọn trẻ chúng tôi: Rất Trẻ
Trung Và Sôi Nổi.
Dáng Đứng Hiên Ngang Bất
Khuất
Sau 2 tháng bị cùm, bị đánh, bị bỏ đói, bỏ khát cho chết, nhờ có
được bản năng và khát vọng sinh tồn mạnh mẽ của tuổi trẻ, tôi đã không chết, và
khi cán bộ trực trại mở cửa xà lim, tháo cùm, tôi vẫn còn đủ sức vừa đi, vừa bò
khoảng 30 mét ra khỏi khu biệt giam để rồi đươc các bạn tù xốc vai dìu về khu
nhà ở. Vừa được anh em giúp tắm rửa xong thì tất cả có lệnh lên hội trường.
Trật tự thông báo đích danh tôi (Phạm Đức Nhì), dù đang nằm xoải chân, xoải
tay, hết hơi, hết sức, cũng không được ở lại phòng.
Sau vài bài hát "gia nô" của ban văn nghệ, cán bộ Hanh
(giáo dục) giới thiệu giám thị Thân Yên lên phát biểu về tính chất nhân đạo,
khoan hồng của chính sách cải tạo. Suốt hơn một tiếng đồng hồ tay trung tá công
an ngân nga cái điệp khúc mà những người tù, ở thời điểm ấy, đã sống ở cái trại
ấy, đều biết rõ là giả nhân, giả nghĩa. Sau đó là phần đóng góp ý kiến của các
"trại viên". Vừa dứt lời mời, một A20 (có lẽ đã được ban thi đua giàn
xếp trước) hăng hái bước lên trước micro. Phải nói là anh "nâng bi"
rất khéo; không quá lố một cách trơ trẽn nhưng cũng đủ làm ban giám thị nở mày
nở mặt. Thân Yên gật gù ra vẻ hài lòng. Lê Đồng Vũ (phân trại trưởng) thì dù
khuôn mặt đanh ác, hàm răng khít rịt, cũng nhếch mép cười nửa miệng. Thấy buổi
học tập đang tiến triển theo chiều hướng tốt, cán bộ Hanh khuyến khích các
"trại viên" khác lên phát biểu. Hắn nói 5 lần, 7 lượt cũng chả ai
thèm lên. Chính giám thị Thân Yên tuy vẫn ngồi tại chỗ, đã phải nói chen vào:
"Các anh được hoàn toàn tự do, nghĩ sao nói vậy, không phải sợ sệt gì hết.
Tôi bảo đảm là sẽ không có một ai bị để ý, bị đối xử khác biệt vì những lời
phát biểu tại hội trường này." Có lẽ chỉ chờ có thế. Một bóng người gầy,
cao như cây sậy đứng lên từ từ đi đến bục diễn giả. Đó chính là Vũ Ánh. Anh sửa
micro cho vừa với tầm đứng của mình và bắt đầu...nói. Anh rào đón rất kỹ về lời
hứa của giám thị cho tự do phát biểu, không bị trù dập, không bị phân biệt đối
xử. Và anh bắt đầu đi vào đề tài chính. "Ông giám thị nói về chính sách nhân đạo khoan hồng rất hay,
người tù chúng tôi nghe rất sướng tai, nhưng rất tiếc lời nói và việc làm
thường không đi đôi với nhau; người đời thường nói một đàng và làm một
nẻo." Anh nói về chế độ ăn
uống; chính sách cho tù ăn 15 cân một tháng (quy ra gạo) nhưng nhà bếp đã lươn
lẹo chia cho tù 15 cân cơm (và khoai mì đã nấu chín) tính ra chỉ được 8, 9 cân.
Anh nói về chính sách lao động khổ sai. Anh nhấn mạnh về việc cán bộ võ trang
đánh tù (chính trị có án). Và sau cùng anh nói về chính sách kỷ luật. Đám cán
bộ muốn đem tôi - một sọ dừa khô được dính vói một bộ xương cách trí - để dằn
mặt các anh em tù có tinh thần chống đối thì Vũ Ánh cũng mời tôi đứng lên để mọi
người tù đều thấy rõ sự dối trá, giả nhân, giả nghĩa của chính sách nhân đạo
khoan hồng.
Lúc ấy trông anh đẹp quá! Hiên ngang quá! Anh ứng khẩu, giọng
chững chạc, đầy uy lực. Cả hội trường há hốc mồm, lắng nghe như uống từng lời
nói của anh. Những câu nói của anh rõ ràng, mạch lạc nhưng đặc sệt như những
bãi nước bọt, những bãi đờm nhổ vào mặt ban giám thị và hội đồng cán bộ đang
ngồi ở dãy bàn danh dự trên khán đài, nhổ vào chính sách nhân đạo khoan hồng,
giả nhân giả nghĩa. Mặt Thân Yên, Lê Đồng Vũ dài thuỗn ra trông thật thảm hại,
trong khi các bạn tù của anh "được lời như mở tấm lòng" vô cùng hân
hoan, thích chí, vỗ tay vang dội.
Tối hôm ấy tôi lại nằm cạnh anh bấm tay nói nhỏ:"Hôm nay anh
chơi đẹp quá!" Anh cười cười nói đùa: "Hồi mới tới cậu đã có một màn
ngoạn mục thì bây giờ tôi cũng phải có chút đóng góp cho chương trình văn nghệ
chứ." Ôi! Làm sao có thể so sánh việc bắt nhịp một bài hát của tôi với cả
một bài diễn văn ứng khẩu của anh chửi thẳng vào mặt ban giám thị và hội đồng
cán bộ quân phục công an đại cán ngồi chỉnh tề, đường bệ trên khán đài, vạch
trần sự dối trá, giả nhân, giả nghĩa của chính sách cải tạo. Việc tôi làm chỉ
thể hiện sự liều lĩnh, lì lợm của một thằng lính dù, cộng với chút kỹ thuật
sinh hoạt của một sĩ quan tâm lý chiến. Còn màn trình diễn của anh, ngoài cái
dũng của kẻ sĩ còn phải có kiến thức sâu rộng và cả tài hùng biện nữa. Hình ảnh
của Vũ Văn Ánh hôm ấy, cao khều, mảnh khảnh đứng với một tư thế oai dũng, đầy
hào khí trên bục diễn giả biểu lộ sự can trường, bản lãnh của một công chức
VNCH, thật khó mà phai mờ trong ký ức tôi.
Một lối sống cởi mở vị
tha, biết chia sẻ
Tôi cũng khoái Vũ Ánh ở tính tình bình dân, cởi mở với mọi người.
Giữ chức vụ rất cao trong ngành truyền thông lâu năm nên kiến thức của anh rất
rộng; anh biết rất nhiều về những nhân vật lãnh đạo và guồng máy chính quyền
VNCH trước năm 1975. Anh còn có khả năng diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu
nên bọn trẻ chúng tôi thường bu lấy anh hỏi han đủ chuyện. Lúc nào anh cũng vui
vẻ trả lời cặn kẽ. Những lúc trời mưa bão không đi lao động được anh còn tóm
tắt truyền cho tôi giáo trình anh học mấy năm ở Mỹ về truyền thông.
Đi lao động anh không “thú phé” (1) như tụi tôi mà làm việc chăm
chỉ, đúng mực; nếu cần, lúc nào cũng sẵn sàng tiếp tay đỡ đần những anh em khác,
không một chút nề hà. Anh đa phần được bình bầu loại khá. Những “cải tạo viên”
xếp loại trung bình thì ngoài hơn nửa chén cơm và chút nước mắm thối (hoặc nước
muối) còn có thêm một miếng bánh bột luộc hình chữ nhật. Đám xếp loại kém như
tụi tôi thì miếng bánh bột luộc bị cắt mất một góc tư (1/4) nên trông giống như
khẩu súng lục. Cái góc tư kia thì cho thêm người xếp loại khá. (Đây là chính
sách rất thâm độc của cộng sản.) Anh Ánh thường thẩy cho đám kém chúng tôi (bữa
đứa này, bữa đứa khác) cái góc tư ấy kèm theo câu nói: “Ráp cho chú mày băng
đạn.”
Khi Nguyễn Hạnh và Phạm Văn Hải trốn trại bị bắt lại, bị đánh thừa
sống thiếu chết rồi đẩy vào biệt giam; mấy tháng sau được thả ra trông gầy ốm,
thật thảm hại. Lúc đó anh Thuật và Ngọc Đen khởi xướng mỗi người một muỗng cơm
thì hai trong số những người đầu tiên xung phong là Vũ Hùng Cương và anh Ánh.
Anh rất hiền, sống hòa nhã với mọi người, không ra vẻ ta đây như
một vài người cùng đẳng cấp khác. Ngay cả khi bất đồng ý kiến anh cũng giữ thái
độ nhã nhặn, không to tiếng gây gỗ với ai bao giờ.
TỜ BÁO HỢP ĐOÀN
Vũ Văn Ánh bằng cách nào tìm sự ủng hộ của các bậc lão thành, có
uy tín, để ra tờ báo Hợp Đoàn thì tôi không đươc biết. Bởi lúc ấy tôi thuộc
loại "nhóc con", trẻ người non dạ. Thỉnh thoảng làm đươc bài thơ thì
lê lết hết chỗ này, chỗ khác đọc cho mọi người nghe. Một buổi tối đi tiểu xong,
về chỗ nằm (ở tầng dưới vì bị liệt sau mấy lần bị cùm trong xà lim) tôi thấy
anh Ánh đang khẽ tiếng chuyện trò với hai vị trưởng thượng khác. Một vị phát
biểu rất rõ ràng, dứt khoát: "Tại sao anh cứ
muốn làm một thằng khinh binh, dễ dàng bỏ mạng ngay từ phát súng đầu tiên? Theo
tôi, người khôn ngoan lúc này phải biết giữ mình, cứ nằm im chờ đợi, nếu không
biết kiên nhẫn giữ mình thì khó có cơ hội được bắn viên đạn sau cùng chấm dứt
cuộc chiến." Tôi nằm im lắng nghe mà
trong người máu sôi lên sùng sục. Lời phát biểu đó khiến tôi "nóng
máu", cao hứng viết bài thơ trong đó có đoạn:
Chúng tôi sẵn sàng nổ
phát súng đầu tiên
rồi ngã gục
cho các anh được bắn
viên đạn sau cùng
giữa tiếng reo hò vang
dậy chiến công
chúng tôi sẵn sàng bắc
cầu qua suối
cho các anh xông tới
phất cờ hát khúc khải
hoàn ca
chỉ cần ngay bây giờ
các anh đứng vào đội ngũ
giữa lúc mịt mù khói lửa
các anh còn ngái ngủ
trên giường
đợi tàn cuộc
các anh tung cửa
ra giữa chiến trường
chỉ trỏ nghênh ngang
các anh sẽ đeo lên ngực
mình hàng tá huy chương
trong khi những anh hùng
thực sự
vẫn ngực trần lặng bước.
và đoạn cuối, trong lúc
cảm xúc (của tuổi trẻ) đang cuồn cuộn chảy, đã xúc phạm hơi nặng đến những vị
"chùm mền kín mít, thủ khẩu như bình, chờ...gió đông để phất cờ hát khúc
khải hoàn ca." Hai hôm sau tôi đọc cho anh Ánh nghe bài thơ mới ra lò, còn
nóng hổi. Nghe xong anh trầm ngâm nói: "Tôi đồng cảm với sự bực tức của cậu, nhưng lúc này, viết như
thế không được, sẽ đẩy họ vào thế cô lập, rồi rất có thể, ngả về phía bên kia.
Nói thật với cậu là tôi đang chuẩn bị cho ra một tờ báo lấy tên Hợp Đoàn để tập
hợp những người tù từ mọi thành phần, mọi chính kiến, trước hết chống lại sự
tàn bạo, bất nhân của chính sách cải tạo, đặc biệt là việc đánh đập người tù,
kế đến là giúp mở mang kiến thức chính trị cho các anh em trẻ nhất là đám chính
trị có án. Rồi sau đó thì tùy cơ ứng biến. Riêng cậu, có bài thơ nào đưa cho
tôi để kịp chọn đăng. Còn bài thơ vừa rồi thì sửa lại đoạn cuối cho nhẹ nhàng
hơn, đừng để người bị chửi bị mất mặt quá đáng; chờ có dịp thích hợp sẽ phổ
biến sau." Và vì thương anh, nể
phục anh, tôi đã bóp bụng sửa lại bài thơ cho hợp với nước cờ mới của anh và
dìm nó cho đến khi ra hải ngoại.
Sau khoảng hơn một tuần, vào buổi sáng Chủ Nhật, Ngọc Đen đến chỗ
tôi nằm giúi vào tay tôi một tờ báo Tuổi Trẻ cuộn tròn và nói nhỏ:"Đọc đi!
Tụi tao canh cho." Tôi liếc qua cửa sổ thì thấy Hải Bầu đang dạo bước dọc
hàng rào ngăn cách nhà 3 và hội trường, mắt thỉnh thoảng lại nhìn về hướng cổng
trại; thì ra cu cậu cũng đang làm lính gác giặc từ xa. Tôi yên tâm mở tờ báo
Tuổi Trẻ ra. Trong ruột tờ báo Tuổi Trẻ là tờ Hợp Đoàn.
Đó là một quyển vở học trò khoảng 60, 70 trang bị cắt ngang mất
non nửa; giấy trắng tinh, bóng láng, đươc khâu lại cẩn thận. Trang bìa là 2 chữ
Hợp Đoàn khổ lớn, được trình bày rất khéo và đẹp. Lật qua vài tờ thì thấy tờ
báo được viết tay, chữ đẹp và rõ ràng, dễ đọc, trình bày trang nhã, bắt mắt.
Nội dung các bài viết đều là những vấn đề thời sự nóng bỏng hấp dẫn ở trong
trại và ngoài đời. Tôi đọc ngấu nghiến một lúc là hết. Hết mà vẫn thòm thèm, cứ
tiếc là tờ báo không dầy thêm vài chục trang nữa. Có thể nói giọng văn truyền
cảm và các đề tài thiết thực của tờ báo đã chinh phục tôi hoàn toàn.
Xong phần mình, thấy 2 thằng ông nội vẫn còn nghiêm chỉnh canh gác
tôi chuyền tờ báo cho một vị lớn tuổi, có tư cách, rất được tin tưởng, kính nể
ở trong nhà. Anh xem xong cầm tay tôi nói: "Trước hết, tôi rất kính phục sự dũng cảm của các anh. Cái tay
chủ bút của tờ báo này là người có thực tài; kiến thức rộng, vừa khoa bảng, vừa
thực tế, lời văn trong sáng, giọng văn rất tình cảm, dễ đi vào lòng người;
những bài thơ khá "ướt" mà vẫn bày tỏ được lập trường, chí khí. Nhưng
trong hoàn cảnh này mà các anh phổ biến nó thì, theo tôi, các anh liều
quá." Ngừng một tý để lấy hơi
anh nói tiếp: "Các anh có biết là hậu quả sẽ thảm khốc như thế nào khi
tờ báo bị lộ không? Cả trại sẽ biến thành địa ngục." Rồi anh cười cười nói chữa lại: "Bây giờ
nó đã là địa ngục rồi, nhưng lúc ấy, cái địa ngục ấy sẽ khủng khiếp hơn, ngột
ngạt hơn, khó sống hơn gấp bội. Chúng nó sẽ lập tòa án xử các anh ngay trong
trại, và ít nhất cũng có vài cái đầu lìa khỏi cổ. Tôi mong các anh suy nghĩ
lại." Tôi chuyển ý kiến của
bạn đọc cho anh Ánh và 2 thằng "lưu hành báo" thì được trả lời:
"Đồng ý là nguy hiểm nhưng vẫn cứ tiếp tục." Mấy hôm sau, trong lúc
chờ đi lao động buổi chiều, anh Ánh nói nhỏ với tôi: "Cậu bảo tụi nó có gì cứ đổ hết cho tôi. Có
nhiều tội thêm nữa thì cũng đâu có cái đầu thứ hai cho tụi nó chém; mình tôi
chết đủ rồi."
Cứ thế, trong khoảng hơn 5 tháng, Vũ Ánh đã cho ra lò 3 số Hợp
Đoàn; số sau đẹp hơn, hay hơn số trước. Khi phong trào chống đối ở trong trại
lên cao; những người tù đã đồng lòng chây lười (một cách hợp nội quy) khi đi
lao động; khi họp hành, học tập
thì miệng câm như hến; khi cần phát biểu thì chỉ trích chế độ ăn uống quá thiếu
thốn, lao động quá nặng nhọc mà chế độ thăm nuôi, quà cáp quá khắt khe. Đúng
lúc ấy, một số người tù bị coi là "nguy hiểm" lần lượt đi vào xà lim
mà không có lý do gì hết. Vũ Văn Ánh là người đầu tiên trong số họ xỏ chân vào
cùm. Tờ Hợp Đoàn mất Sáng Lập Viên kiêm Chủ Bút, kiêm Tổng Thư Ký Tòa Soạn tạm
thời đình bản.
Sau đó, do độc giả yêu
cầu tha thiết quá, anh San, anh Thiệp, Ngọc Đen, Hải Bầu, Vũ Mạnh Dũng đề nghị
tôi làm Thư Ký Tòa Soạn. Nhiệm vụ của tôi là đọc, sửa chữa, sắp xếp bài vở rồi
giao cho Hải Bầu lên khuôn. Tôi biết kiến thức, khả năng của mình còn chưa
tương xứng với công việc có trách nhiệm lớn lao như vậy, nhưng lúc đó tôi bị
liệt hai chân, không phải đi lao động nên có điều kiện thuận lợi hơn các anh em
khác. Thêm nữa, cái máu liều của thằng lính nhảy dù trong tôi vẫn còn nóng hổi
nên tôi đã không từ chối. Hợp Đoàn tiếp tục một cách an toàn được 2 số nữa.
Hợp Đoàn Đình Bản Vĩnh
Viễn
Sau sự kiện Những Tiếng Hát Bừng Sáng A20 một thời gian, chúng tôi
đang gom bài chuẩn bị cho Hợp Đoàn số 6 thì một việc đáng tiếc xảy ra. Anh
Thiệp đến chỗ nằm của tôi đưa một bài viết ngắn để chuẩn bị đăng báo. Anh hớ
hênh thế nào để Trần Thái Viên thấy được. Thế là chỉ một lúc sau cán bộ trực
trại và các trật tự ập vào nhà khám xét. Tôi nhanh chóng nhai nuốt được một nửa
mẩu giấy; nửa còn lại bị cán bộ trực trại bóp mồm moi ra, nhớt giãi còn lòng
thòng. Hắn cầm mảnh giấy ướt nhẹp chăm chú đọc nhưng chắc là chỉ thấy mấy nửa
hàng chữ không đầu, không đuôi, chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi bị lôi thẳng xuống
xà lim số 4. Năm phút sau cán bộ Tri (an ninh) đã vào xà lim trực tiếp hỏi
cung. Tôi vẫn ca điệp khúc "không biết" nên bị hắn dùng giầy đinh đạp
tới tấp vào đầu, vào ngực, vào lưng. Bị cùm 2 chân nên tôi phải trân mình chịu
đựng. Tối hôm ấy chỗ cột sống tạm hồi phục nay lại chấn thương khiến tôi vô
cùng đau đớn. Phân, nước tiểu chui ra khỏi cơ thể tôi một cách tự do không thể
kiểm soát. Tôi kêu gào cấp cứu đến khàn cả cổ. Có ai đó ở xà lim khác cũng lên
tiếng kêu phụ giúp. Mãi đến sáng (có lẽ điểm danh xong) cán bộ trực trại dẫn
bác sĩ Lịch (tù) cùng 2 trật tự vào khu xà lim tìm hiểu bệnh tình của tôi. Sau
khi chẩn đoán, bác sĩ Lịch (và sau đó cả bác sĩ Nhiếp) đã khẩn thiết đề nghị,
và phân trại trưởng phân trại E Lê Đồng Vũ cùng viên bác sĩ phụ trách y tế toàn
trại đã đồng ý trên nguyên tắc, chuyển tôi vào bệnh xá phân trại B.
Hôm nay anh Ánh đã mất. Tôi kể lại sự kiện này hoàn toàn không có
ý trách cứ anh Thiệp. Chúng tôi đã ngầm hiểu với nhau; hoàn cảnh khắc nghiệt
tôi phải chịu đựng là cái giá phải trả khi tham dự cuộc chơi; sơ suất là chuyện
thường tình; dám chơi, dám chịu, hậu quả dù thế nào cũng phải hiên ngang chấp
nhận. Thật ra, nhờ sơ suất của anh Thiệp cuộc đời tôi đã qua một bước ngoặt đến
chỗ dễ thở hơn, thoải mái hơn (được vào bệnh xá, mỗi khi đau đớn được cấp cứu
dễ dàng hơn), và có thể cũng nhờ thế mà tôi còn có cơ hội sống sót trở về.
Trở lại tờ báo Hợp Đoàn, theo 2 thằng "lưu hành báo" thì
độc giả vẫn đọc một cách thích thú và hết lòng ủng hộ, nhưng theo tôi, hai số
Hợp Đoàn "vắng" Vũ Văn Ánh đã có những khuyết điểm sau đây:
- Phẩm chất của giấy mà
Đen và Bầu kiếm được không tốt bằng giấy của VA; việc khâu giấy đóng tập cũng
không khéo, không đẹp bằng 3 số đầu.
- Chữ viết, trình bày
thì thua sút hẳn.
- Mỗi số thiếu mấy bài
"chủ lực" của anh Ánh nên sức hấp dẫn kém hẳn đi.
- Thiếu cái "tính
thời sự" của báo chí (VA rất nhạy bén ở khoản này.)
- Thiếu cái "final
touch" (o bế lại câu văn, câu thơ) của VA nên một số bài của các cộng sự
viên khác đôi khi vẫn còn hơi "thô ráp".
Nếu không có Vũ Văn Ánh thì sẽ không có tờ Hợp Đoàn; điều đó rất
dễ được mọi người công nhận. Nhưng nếu không có bộ máy lưu hành thì Hợp Đoàn
không thể đến tay anh em ở khắp 5 nhà. Tôi muốn nói đến Trần Bửu Ngọc (Ngọc
Đen) và Trần Kim Hải (Hải Bầu). Hai tay này rất bặt thiệp, lanh lợi (sau này có
thêm Tuấn Bình Định giúp sức) đã lưu chuyển tờ báo đến tận tay từng độc giả.
Những cộng tác viên viết bài lẻ tẻ như tôi, như các anh Phạm Chí Thành, Phạm
Văn Hải ... và ngay cả hai cây viết được coi là đồng sáng lập viên của tờ báo
là Trần Danh San, Nguyễn Chí Thiệp, khi đụng chuyện có thể quay mặt, lắc đầu
xua tay "Em hổng biết." Còn Vũ Văn Ánh thì khỏi cần nói "Khi ra
tờ báo là tôi đã chấp nhận đầu có thể lìa khỏi cổ bất cứ lúc nào" vì trong
cái "khí hậu chính trị" của A20 lúc đó chuyện "đầu lìa khỏi
cổ" (khi báo bị lộ) là chắc như đinh đóng cột. Còn nếu "bể ra"
từ chỗ lưu hành thì ngoài Vũ Ánh còn có thêm 3 con nhạn Ngọc Đen, Hải Bầu, và
Tuấn Bình Định ra phơi xác trên "Đồi Vĩnh Biệt". Tôi viết như vậy để
người đọc thấy cái "gan" của Vũ Ánh khi chơi trò chơi Hợp Đoàn; anh
và mấy thằng em thực sự "dám chơi dám chịu".
Không Nỡ Xuống Tay
Khi bài viết của anh Thiệp suýt bị lộ, mọi người đều đồng ý là
phải đình bản tờ báo. Tôi hối thúc Ngọc Đen, Hải Bầu thiêu hủy cả 5 số Hợp Đoàn
và tất cả giấy tờ, bút mực liên quan đến tờ báo nhưng 2 thằng ông nội nhất định
không chịu nghe; đứa nào cũng đòi giữ làm kỷ niệm. Trong khi chờ quyết định
chính thức của giám thị Thân Yên chuyển tôi vào bệnh xá phân trại B, một em tù
chính trị án 20 năm ở nhà 1, lợi dụng lúc gánh phân buổi sáng (em là trực sinh)
đã lén gặp tôi xin được nhận 3 số báo Hợp Đoàn để gởi cho một tổ chức phục quốc
của em ở ngoài đời. Em nói: "Mấy tờ báo hay
quá, đẹp quá, rất có ích cho Ban Tuyên Huấn của tổ chức phục quốc." Tôi sợ đến hồn xiêu phách tán, và đã dùng hết
hơi sức của mình vừa chửi, vừa năn nỉ 2 thằng Đen và Bầu xuống tay hủy mấy tờ
báo.
Sức Mạnh Của “Tinh Thần
Hợp Đoàn”
Tại phân trại E của A 20 vào thời điểm ấy, cầm tờ báo Hợp Đoàn
trong tay, trong lúc có ít nhất 2 người canh gác cho mình đọc, cũng giống như
cầm một trái lựu đạn đã rút chốt, có thể nổ bất cứ lúc nào. Người đọc phải
"cứng" (dám đọc) đồng thời phải được nhóm lưu hành, nhóm biên tập xếp
vào loại "an toàn, đáng tin" (việc xếp loại hoàn toàn theo cảm tính
và quan hệ cá nhân). Do đó, những người quá kín đáo trong việc bày tỏ thái độ,
lập trường của mình thường bị "cho qua" vì lý do an ninh.
Các anh, các chú lớn tuổi ở trong trại thì rất dè dặt trong việc
bày tỏ thái độ với Hợp Đoàn. Nhiều người cho rằng anh Ánh và những cộng sự viên
khác quá liều lĩnh: “làm Hợp Đoàn thì lợi
bất cập hại; một sơ suất nhỏ là hàng loạt người mất mạng; những người còn lại
sẽ hứng chịu thêm những đè nén, khắc nghiệt không đáng có.” Một vài người khi được đưa báo vào tay đã giẫy
nẩy như đỉa phải vôi, xem vội vài ba trang rồi trả lại ngay. Nhưng Hợp Đoàn
được ủng hộ rất mạnh mẽ của đám sĩ quan trẻ, những người tù chính trị tuổi
trung niên và đặc biệt là đám tù chính trị có án. Theo Tuấn Bình Định báo cáo
thì có thể đến hơn 70% những người tù chính trị có án đã thường xuyên đọc tờ
báo. Hợp Đoàn chạy được 2 số là tôi đã cảm thấy một chút chuyển biến trong sinh
hoạt của trại. Những hoạt động chống đối, tương trợ, cứu trợ không chỉ xảy ra
có tính cách riêng lẻ, cá nhân hoặc giới hạn trong khuôn viên của từng nhà mà
đã có sự điều hợp trong phạm vi toàn trại. Tết năm Nhâm Tuất (đầu 1982) khi 3
thằng điên Vũ Mạnh Dũng, Hải Bầu và Ngọc Đen đứng ra tổ chức Những Tiếng Hát
Bừng Sáng A20, vâng, đúng những ngày ấy, tôi mới thực sự nhận thấy ảnh hưởng
của tờ báo đối với anh em tù. Chính “tinh thần Hợp Đoàn” và guồng máy phát hành
của tờ báo đã giúp tổ chức thành công 5 buổi văn nghệ làm nức lòng những người
tù ở cái Trại Trừng Giới A20 hắc ám vào thời điểm ấy và dư âm còn vang vọng đến
mãi bây giờ. Tôi nghĩ mình sẽ không quá lời khi nói rằng:
Chính những ngày tháng cùng chịu đọa đày, khổ cực, chính những muỗng
cơm, những viên thuốc giúp đỡ nhau lúc đói lòng, lúc đau ốm, chính dáng đứng
hiên ngang, bất khuất của Vũ Ánh, chính lập trường chống cộng không hề lay chuyển của Nguyễn
Văn Đèn (2), chính cuộc tuyệt thực chống chế độ tra tấn, hành hạ người tù một
cách vô cùng dã man, ác độc trong biệt giam (3), chính vụ cướp súng vượt ngục
của Bảy Cánh Chim Khao Khát Tự Do (4), chính Những Tiếng Hát Bừng Sáng A20, và
chính“tinh thần Hợp Đoàn” đã là chất keo nối kết gần một ngàn người cựu tù
A20 hiện đang sống rải rác khắp nơi trên toàn thế giới. Hơn thế nữa, cùng với
những phong trào đấu tranh tại Bến Tre, Suối Máu, Nam Hà, Ba Sao, Yên Bái ….., những tấm gương bất khuất trong tất cả các
trại “cải tạo” ở khắp 3 miền đất nước, những người tù A20 đã trở thành (và sẽ
là) niềm tự hào, là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần cho lớp trẻ trong công cuộc đấu tranh đòi dân quyền,
nhân quyền, đa nguyên, đa đảng, và tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam.
Vũ Ánh Thực Hiện Lời
Hứa.
Tháng 3/1983 một phái đoàn y tế của bộ nội vụ đến thanh tra trại A
20. Tôi may mắn được các bác sĩ trong phái đoàn khám và đánh giá thực trạng
bệnh tật. Ngày 06 tháng 9/1983 một mình tôi bệnh tật quá nặng, đã được thả vì
lý do nhân đạo. Tôi bị liệt không thể về một mình nên phải chờ một tuần sau,
trại có người tù hình sự mãn án nhân tiện đưa tôi về. Sau 6 tháng uống thuốc
nam và châm cứu cộng với sự phò trợ của ơn trên, tôi bình phục, có thể tự mình
đi lại, không cần nạng. Tháng 11/1984 tôi vượt biên bị bắt tại Bến Lức (Long
An), sau đó bị đưa đi tập trung cải tạo tại Nhơn Hòa Lập. Tháng 8/1986 tôi bị
giải về số 4 Phan Đăng Lưu để trả lời về bài thơ Từ Ngục Tù Cộng Sản trong đó
tôi xúc phạm ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam hơi nặng. Tôi hỏi dò và mấy
tháng sau may mắn biết được anh Ánh, Ngọc Đen, Tú Cường, anh Thiệp, anh San
cũng đang ở đây về vụ Hợp Đoàn. Riêng Hải Bầu dính líu tới Hiếu Đầu Bạc và ông
Của trong một vụ khác nhưng cũng bị truy hỏi về Hợp Đoàn. Khoảng tháng 12/1986
(còn đang chấp cung), vào sáng Chủ Nhật một anh bán bánh cuốn chả lụa ghé miệng
vào cửa thông gió xà lim 13 khu C1 hỏi: “Phải anh tên Nhì không?” Tôi gật đầu. Anh nói thật nhanh: “Alfa đã mua xe
Honda rồi”. Tôi xây xẩm như bị trúng gió, lặng người đi vì buồn bã. Như vậy là
anh Ánh đã ôm trọn vụ Hợp Đoàn. Anh đã giữ lời hứa với tôi và 2 thằng "lưu
hành báo". Thật ra tôi chỉ bị truy cứu vì bài thơ. Do bị đổi vào bệnh xá B
và được về sớm nên đám cán bộ an ninh đã quên tôi trong danh sách những người
dính líu tới Hợp Đoàn. Tôi vừa thương lại vừa giận anh Ánh. Tại sao phải nhận
chứ? Bọn họ đã có bằng chứng gì đâu? (Sau này tôi mới hiểu là "dòi trong
xương dòi ra". Ngô V L đã cộng tác với Sở Công An TP HCM và đã khai tuốt
tuột. Hắn, một thời, cũng có tinh thần chống đối mạnh mẽ và dĩ nhiên, biết về
tờ báo Hợp Đoàn. Hắn đã khai thì anh Ánh khó lòng chối tội.) Sau Tết Tây (1987)
vài ngày, vào một buổi trưa Chủ Nhật, tôi nghe tiếng anh Ánh lên đài. (nói lớn
từ nhà này sang nhà khác, từ xà lim này sang xà lim khác). Giọng anh vẫn khỏe,
lạc quan và rất khôi hài:
"Chắc là không theo
gót Tạ Vinh (7) đâu." Một lúc sau anh cười nói
tiếp:
"Nhưng lịch thì chở
cả xe GMC cũng không hết."
Không biết vì bằng chứng
không đủ mạnh để buộc tội hay vì gặp đúng lúc Nguyễn Văn Linh lên, tuyên bố cởi
trói chính trị mà các anh không ai phải theo Tạ Vinh và cũng không ai phải ra
tòa. Tất cả bị nhốt thêm một thời gian nữa và rồi đều được thả về. (Anh Ánh về
tháng 11/1987)
Gặp Vũ Ánh Ở Sài Gòn
Cuối tháng 8/1988 tôi được thả khỏi Phan Đăng Lưu. Cầm tờ giấy ra
trại với tội danh “tuyên truyền phản cách mạng và trốn ra nước ngoài” tôi biết
rất nhiều khó khăn, thử thách đang chờ đợi mình ở phía trước. Gia đình khánh
kiệt, mẹ già nay ốm, mai đau, các em tứ tán tha phương cầu thực. Cô em gái lấy
chồng ở Vũng Tàu đem về cho chiếc xe đạp. Tìm được hai chỗ dạy Anh Văn thì công
an đến giải tán. Nghe tin anh Ánh đã thôi đạp xích lô và đang làm cho một xưởng
gỗ ở đường Nguyễn Văn Thoại, tôi đạp xe đến thăm. Tôi gặp anh vào khoảng 6 giờ
chiều lúc đang thu dọn đồ đạc để nghỉ. Trông anh lam lũ nhưng mặt vẫn cương
nghị, đôi mắt vẫn sáng và nụ cười vẫn tươi trên môi. Hai anh em ôm nhau mừng
mừng tủi tủi rồi ngồi tâm sự đến khoảng 7 giờ thì chia tay. Đó là lần duy nhất
tôi gặp anh ở Việt Nam. Sau này gặp nhau ở Cali, nhắc lại lần gặp mặt hôm ấy,
tôi ngượng ngùng nói: “Lúc ấy em chả có đồng
nào để có thể mời anh uống ly cà phê hoặc ăn tô hủ tíu.” Anh cười trả lời: “Mẹ kiếp! Tôi thì cũng có hơn gì cậu. Thôi! Bây
giờ muốn ăn gì thì tôi chở đi ăn.”
Gót Chân Achilles (6)
của Vũ Ánh
Có lẽ điều tôi không thích ở anh Ánh, cho đó là Gót Chân Achilles
của anh, đã có lúc tỏ thái độ bực dọc ra mặt với anh, là anh quá đam mê công
việc đến độ “tham lam”, cái gì cũng nhận, cũng ôm vào người. Nghe anh đọc thời
khóa biểu làm việc mà muốn ớn lạnh; chỉ toàn công việc là công việc; thời gian
giải trí vui chơi rất ít. Anh rời cương vị chủ bút báo Người Việt cũng vì bị
đâm vào Gót Chân Achilles của mình; trong lúc gấp rút để kịp ra tờ báo Xuân,
anh mệt mỏi vì quá nhiều công việc,“ngủ thiếp đi, không kiểm soát hết được
bài vở lên khuôn nên đã có kẻ lợi dụng”. (7) Vài năm sau này, viết về quá khứ có lúc anh
nhầm lẫn sự kiện này với sự kiện khác, thời điểm này với thời điểm khác. Mỗi
lần tìm ra một lỗi như vậy Bà Đầm Nguyễn Đại Thuật lại gọi tôi: "Nhì nói với ông Ánh đi! Nghỉ hưu được rồi
đấy." Còn chị Yến Tuyết, vợ
anh, thì nói: "Chú gắng khuyên
anh chú đi! Chứ tôi thì hết phương rồi". Nói gì thì nói, đầu anh vẫn cứng như đá. Lời hứa của anh với tôi "Được rồi! Cậu để từ từ rồi tôi tính" cứ lặng lẽ bay theo gió mất tăm, mất tích. Giận
anh cũng chẳng ích gì. Vì tính anh là như thế, con người anh là như thế. Có thế
mới là Vũ Ánh.
KẾT LUẬN
Sau đại họa của dân tộc năm 1975, những cái chết hào hùng của
Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Phú...và
vô số những người lính vô danh khác ... đã phần nào vực dậy sĩ khí của quân dân
miền nam. Vũ Văn Ánh không chết như những vị tướng tuẫn tiết. Anh chấp nhận
sống để chiến đấu. Khi thất bại, trong cay đắng, tủi nhục, đọa đày của các trại
tù anh vẫn tiếp tục ngẩng cao đầu chiến đấu một cách anh dũng, kiên cường, bảo
vệ khí tiết, danh dự, nhân phẩm của người trí thức, chống lại sự tàn ác bất
nhân của chính sách tù đày, cải tạo. Anh đã trở thành ngọn đuốc sáng soi đường
để các thế hệ kế tiếp vững tin đi tới tương lai.
Sau gần 2 năm ở cùng nhà, cùng đội với anh, nằm gần anh, được anh
tận tình chỉ bảo, tôi đã học được nhiều điều; kiến thức được mở rộng thêm, câu
văn, câu thơ viết ra trong sáng hơn, ngay đến nhân cách - do ảnh hưởng lối ứng
xử của anh - hình như cũng được tốt đẹp hơn.
Anh ra đi ở tuổi 73 (8); vẫn còn một mộng ước chưa thành: được
thấy quê hương đất nước thoát họa cộng sản, toàn dân Việt được hít thở không
khí dân chủ, tự do. Nhưng đời anh như thế cũng là có hậu; được sống, chiến đấu
cho lý tưởng, hết lòng phục vụ cộng đồng, phục vụ dân tộc cho đến giây phút
cuối cùng, cho đến hơi thở cuối cùng. Và được chết - an lành, không đau đớn -
trong không khí gia đình ấm cúng, vợ hiền, con hiếu thảo và bè bạn hết mực quý
mến, thương yêu.
Tôi may mắn được anh tin yêu, dìu dắt, rất hãnh diện đã cùng anh
đi chung một đoạn đời.
League City ngày 30
tháng 5 năm 2014
Phạm Đức Nhì
Chú thích:
1.
Thủ, giữ sức, không làm
hết mình
2.
Anh Đèn tuyên bố trước
mặt các cán bộ và anh em: “Bao giờ cộng sản còn
cầm quyền là tôi còn chống, ở trong tù tôi cũng chống, ra ngoài tôi cũng
chống.”
3.
Nguyễn Tú Cường khởi
xướng, Hoàng Ngọc Thủy và Phạm Đức Nhì ủng hộ và cùng tham dự.
4.
7 người tù A20 (đội 14)
cướp súng đánh gục cán bộ võ trang rồi trốn vào rừng. Sau bị công an và bộ đội
Phú Khánh truy lùng bắn chết 6 người, một người bị bắt lại.
5.
Người bị chính phủ
Nguyễn Cao Kỳ tử hình vì đầu cơ gạo.
6.
Là câu ngạn ngữ nổi
tiếng nói về điểm yếu của mỗi con người.
7.
Vũ Ánh, Món Nợ Văn Hóa
& Tình Chiến Hữu, Phạm Đức Khôi.
8.
Trong bài Lần Cuối Cùng
Gặp Big Minh anh Ánh viết:
Ông (TT Dương Văn Minh) chưa mời tôi ngồi đã
hỏi:
· Em bao nhiêu tuổi?
·
Thưa
Tổng Thống 32.
Chính vì thế tôi nghĩ trên giấy tờ anh sinh năm
1943, nhưng khi điện thoại hỏi
chị Yến Tuyết, vợ anh, thì được biết câu trả lời của anh với TT Dương Văn Minh
(30/4/1975) là lầm lẫn. (Đúng ra phải là 34). Anh sinh năm 1941; tuổi trên giấy
khai sinh cũng là tuổi thật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét