Bài
điếu văn cho Trần Danh San một A-20 vừa ra đi vĩnh viễn!
Vũ
Ánh
San
thân,
Dù đã
đoán trước được ngày giờ này đến với bạn sẽ không xa cái ngày ở tôi và Vũ Hồng
Cương đến thăm và ở lại tán gẫu với bạn cả buổi sáng tại bệnh viện. Buổi sáng
hôm đó, tôi đã nghe bạn nói với người bác sĩ điều trị: “Dù muốn dù không tôi
cũng sẽ ra đi, đừng lo lắng thái quá cho tôi”. Trần Danh San là như thế ! Coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng không phải chỉ ở vào thời điểm bạn đã nằm trên
giường bệnh vì ung thư phổi mà ngay từ thời gian luôn luôn chúng ta phải đối
mặt trực diện với kẻ thù từ những năm đầu của biến cố 30-4-1975. Tôi nhớ cái
ngày chúng tháo cùm mở cửa xà lim để chuyển chúng ta vào khu chuồng cọp “sang
trọng” hơn ở trại B, đôi cổ chân của bạn sưng lên như chân voi, cái dấu cùm 16
lún xuống thành hai cái vòng. Chúng ta đã kiệt sức và phải bám vào nhau để lết
ra gốc hàng dừa phía sau khu biệt giam chờ lên xe để chuyển trại. ( Khu biệt
giam hay khu chuồng cọp phân trại B của A-20 Xuân Phước sang trọng hơn
chỉ là mới hơn rộng hơn về bệ nằm nhưng chế độ ăn uống thì tệ hại hơn, nước
uống được cấp phát dồi dào hơn nhưng nước muối mặn hơn nên dễ bị phù hơn. Tôi
và Trần Danh San bị phù rất nặng đến mức cứ ngủ thiếp đi khi đang nói chuyện.
Nếu ở ngoài các bạn bè tâm phục không liều chết tổ chức cho một người liều chết
leo qua bức tường cao 4 thước có kẽm gai trước họng thượng liên của vọng gác
tiếp tế thuốc vitamin B-1 cho chúng ta, chắc chúng ta cũng không thể sống nổi)
Tôi
nhớ trại trưởng phân trại E của A-20, Lê Đồng Vũ mà chúng ta gọi là Tư Nhừ vì
hắn mang lon thiếu tá công an, giọng lúc nào cũng nhừa nhựa như thằng say rượu,
không biết nó sẽ rút cây K-54 ra bắn mình lúc nào, hỏi khích bạn: “Thế nào, anh
San còn bẻ gậy chống trời nữa không”. Trần Danh San đáp tỉnh bơ: “Tất nhiên,
cán bộ”. Bẻ gậy chống trời là từ ngữ đầy tính tự kiêu nhằm diễu cợt cái thế yếu
của những người thua trận như chúng tôi và cái thế “trời” của những kẻ chiến
thắng. Tư Nhừ hay Lê Văn “Nhừ” trả đũa một cách mỉa mai: “Hai anh trông còn
khỏe lắm. Vào trong B tiếp tục tẩm bổ bằng muối và nghỉ mát để có sức bẻ gậy
chống trời !”. Chữ “trời” hắn kéo dài ra mang hơi hám của một lưỡi dao có thể
cắt đứt động mạch chủ của chúng ta bất cứ lúc nào.
Bạn
ạ, trưa Thứ Hai vừa rồi, Tăng Ngọc Hiếu từ Minnesota gọi điện thoại cho tôi báo
tin bạn không còn ở với bọn tôi trên dương thế nữa. Tôi đã biết tin này trước
anh Hiếu, nhưng cũng rất xúc động vì giọng nói như khóc của anh, một người bạn
tù lúc nào cũng thuần hậu và quảng đại với tất cả các anh em. Bạn có biết Hiếu
nói với tôi những lời như thế nào không? Anh ấy nói: “Ông ơi thằng San nó là một
tay chơi trong tranh đấu. Hình ảnh của nó rất lớn mà chính nó không bao giờ chú
ý đến”. Chữ nghĩa tay chơi trong tranh đấu kể ra thì cũng khó diễn đạt. Không
biết riêng bạn thì bạn nghĩ như thế nào và cũng chẳng đứa nào trong chúng tôi
nhớ ra để hỏi bạn khi còn trên trần thế, nhưng cá nhân, tôi nghĩ một “tay chơi
trong tranh đấu” phải là một người đầy bản lãnh, đông bạn bè tâm phục chung
quanh, biết nhận lầm lỗi để sửa chữa, biết thỏa hiệp để lùi một tiến
hai, biết tổ chức và duy trì tổ chức có kỷ luật, thẳng tay loại bỏ những thành
viên vô kỷ luật trong tổ chức và có đủ khả năng thương thuyết nói chuyện với
những nhóm khác quan điểm để làm việc chung. Tăng Ngọc Hiếu, Vũ Hồng Cương cùng
nhiều anh em khi nghe tin bạn vĩnh viễn ra đi đã gọi cho tôi và cho rằng bạn là
người có đủ những đức tính này, là người đi tiên phong và can đảm nêu vấn đề
nhân quyền ra trước bọn người đang điên cuồng vì chiến thắng, sẵn sàng bắn giết
bất cứ ai đi ngược lại suy nghĩ của họ chứ không phải trước một chính quyền
chuyên chính đã bớt chuyên chính hơn như chính quyền Việt Nam ngày nay sau khi
Hà Nội đã nhận những cái tát đích đáng của dư luận thế giới bên ngoài.
Nhưng
bọn tôi vẫn nghĩ rằng cái buổi sáng ở bệnh viện Garden Grove cũng là buổi không
hẹn trước mà nên. Hôm ấy tôi thấy bạn tỉnh táo lắm, đi lại được, đã ngồi dậy
được, bộ nhớ của bạn “on” trở lại. Bạn nói đủ thứ chuyện quá khứ, hiện tại và
cả dự phóng về tương lai. Bạn nhớ tên từng khuôn mặt, tính tình của nhóm anh em
tương đối hiểu nhau ở trại A-20, từ Tăng Ngọc Hiếu, Hiếu “đầu bạc”, Ngọc “đen”,
Nhì “chính huấn”, Hải “bầu”, Hải “cà”, Ngô Quốc Việt “pilot”, Phụ “dù”, Hai,
Mỹ, Tường “dù”, Sơn Hồng Đức, Trần Vinh, Cái Trọng Ty, Võ Long Sơn Hải, Mai Đức
Phi cho tới Vũ Hồng Cương, Lương Văn Ngọ, Bùi Đạt Trung tức Trung “điên” (San
còn phán: Lão ấy chả điên chút nào), Vũ Đức Nghiêm, Khuất Duy Trác, Võ sư
chưởng môn Vovinam Lê Sáng, ông Châu Sáng Thế (Hồi giáo), các linh mục Nguyễn
Văn Vàng, Phan Văn Trọng, Nguyễn Luân, Thượng tọa Thích Huệ Đăng, Quách Văn
Trung, Trần Công Linh (BĐQ), Tài “sún”, Nhan Hữu Hậu (tùy viên của nhiều đời
thủ tướng VNCH), Trịnh Tùng, Tư “rè” Nguyễn Ngọc Tiên, Lê Thái Chân, Tống Phước
Hiến, Lê Quang Minh, Khúc Thừa Văn (cựu DB/VNCH), cụ Nguyễn Duy Giá (cựu Tổng
Đốc), ông Võ Văn Hải (chánh văn phòng của Tổng Thống Diệm), Trần Quí Phong,
Khúc Thừa Văn (cựu DB/VNCH), Nguyễn Chí Thiệp, Phạm Trần Anh và còn rất nhiều
người khác. Không hỏi thì thôi nhưng nếu hỏi đến một anh em nào, bạn nói ra
vanh vách.
San
thân,
Tôi
đã đến thăm nhiều đồng đội của chúng ta lần cuối cùng trước khi họ trở thành
người thiên cổ. Cuộc viếng thăm nào trong hoàn cảnh ấy cũng buồn và có những
giọt lệ của tuổi già. Chẳng hạn như lần tôi và Cương thăm bạn ở khu săn sóc đặc
biệt trong khi bạn chờ đợi kết quả thử nghiệm cuối cùng ở một dưỡng đường trên
đường College. Lần ấy, chỉ có bạn là vui, chiếc máy cassette trong bạn hoạt
động với công xuất tối đa, nhưng chúng tôi thì gần như cạn công xuất. Tuy
nhiên, khi tình trạng của bạn được chính thức coi như hết thuốc chữa và được
chuyển về bệnh viện Garden Grove, cuộc họp mặt tay ba giữa Cương, tôi và bạn
trở thành cuộc gặp mặt nhau lần cuối cùng. Bạn nhắc tới Bản Tuyên Ngôn Nhân
Quyền một tác phẩm tiên phong soạn chung với đồng nghiệp và cũng là bạn thân
của mình là luật sư Triệu Bá Thiệp mang ra đọc trước nhà thờ Đức Bà ngày
23-4-1977 và bản tuyên ngôn này đã được bạn viết lại trong số báo Hợp Đoàn đầu
tiên chúng ta phổ biến ngầm trong trại cải tạo A-20 Xuân Phước. Trong cuộc gặp
ấy, tôi nhắc với bạn rằng không ai tránh được những yếu điểm của bản thân và
bạn cũng vậy. Nhưng chung cuộc thì bạn cũng đã là người làm toàn vẹn nhất nghĩa
vụ đối với vùng đất mà chúng ta lớn lên, học hành, làm việc và chiến đấu. Những
việc làm của bạn, của tôi và những anh em khác không mang lại sự thành công như
chúng ta mong muốn, nhưng ít ra cũng từ những việc làm đó, chúng ta đã khẳng
định được nhân cách của mình, đứng thẳng lưng để đối đầu trực tiếp với cường
quyền. Và nhất là về một mặt nào đó, bạn đã là người đi tiên phong một cách can
đảm và không tính toán thiệt hơn cho cá nhân mình, gia đình mình trong việc đòi
hỏi quyền thiêng liêng của con người phải được tôn trọng chỉ 2 năm sau khi
những người thắng trận điều hành đất nước bằng một chính sách hẹp hòi, kỳ thị
và rừng rú, chà đạp lên quyền sống của mọi người.
San
thân,
Câu
chuyện về bạn có thể viết được một cuốn tiểu sử rất dày về đời tư, đời công và
đời tù của một nhà tranh đấu. Nói như thế có nghĩa là bạn đã sống từng trải, đã
là một ngôi sao trong nghề nghiệp của chính bạn, đã khôn khéo trong cách ứng xử
với thế nhân, đã có một vài thiếu sót trong nghĩa vụ đối với gia đình nhưng
trong đời công bạn đã làm việc và chiến đấu không biết mệt mỏi góp phần mưu cầu
kiến tạo một xã hội dân sự tốt đẹp, trọng pháp và quyền con người được tôn
trọng.
Mong
bạn về cõi bình yên và sống ở một thế giới khác thênh thang hơn, không còn
chiến tranh và cũng chẳng làm gì còn thù hận. Bạn xứng đáng được hưởng một
“cõi” như thế. Cái phúc phần đáng nói nhất bạn để lại cho trần thế này là tiếng
nói tha thiết nhất của một người yêu nước và yêu con người qua bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền 1977 mà bạn và luật sư Triệu Bá Thiệp là đồng tác giả mà kết quả của
việc phổ biến nó khiến bạn phải trả cái giá của tù đầy lâu dài. Bạn cứ yên tâm
rằng vắng bóng bạn, chúng tôi vẫn còn mãi mãi nhớ đến San “lùn” của A-20 Xuân
Phước ngày nào và tôi sẽ nói với những đứa con đã trưởng thành và làm nên của
bạn rằng bố San là người hùng của chúng tôi và cũng là người hùng của chính các
cháu đó. (VA)
PHÂN ƯU
Nhận được tin cựu luật
sư TRẦN DANH SAN, người đọc Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền ngày 23-4-1977 tại trước
Vương Cung Thánh Đường Saigon, cựu tù cải tạo trại trừng giới A-20 Xuân Phước
vừa qua đời vì bạo bệnh ngày 11-11-2013 tại tư gia ở Little Saigon, quận Cam,
Nam California, hưởng thọ 77 tuổi.
Chúng tôi, những anh
em cựu tù cải tạo trại A-20 Xuân Phước thành kính phân ưu cùng gia đình tang
quyến và cầu mong hương linh Trần Danh San sớm về cõi Phật.
MỘT SỐ CỰU TÙ CẢI TẠO
TẠI TRẠI A-20 XUÂN PHƯỚC Ở BẮC VÀ NAM CALIFORNIA, TEXAS, VIRGINIA, MASSACHUSETTS,
WASHINGTON STATE, UTAH, FLORIDA, GEORGIA, MINNESOTA VÀ AUSTRALIA
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
WESTMINSTER -
Luật Sư Trần Danh San, người, vào ngày 23 Tháng Tư, 1977, đứng trước thềm nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền
Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” vừa qua đời lúc 1 giờ 30 sáng ngày 11 Tháng Mười Một, 2013, tại tư gia ở Westminster, California, thọ 77 tuổi.
Luật Sư Trần Danh San, người, vào ngày 23 Tháng Tư, 1977, đứng trước thềm nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền
Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” vừa qua đời lúc 1 giờ 30 sáng ngày 11 Tháng Mười Một, 2013, tại tư gia ở Westminster, California, thọ 77 tuổi.
Nhắc đến Luật Sư Trần Danh San, nhiều người
nhớ đến ông như một luật sư kinh nghiệm, tài giỏi, đã cùng Luật Sư Triệu Bá
Thiệp viết và đọc bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên của Việt Nam vào năm 1977,
chưa đầy 2 năm sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam.
Luật Sư Trần Danh San (trái) và luật sư Triệu
Bá Thiệp, 2 đồng tác giả “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn
Cùng,” trong một sinh hoạt tại Little Saigon năm 2011. (Hình: Nguyên Huy/Người
Việt)
Trong một lần trả lời phỏng vấn của Người Việt
năm 2011, Luật Sư Trần Danh San kể lại thời điểm đọc bản Tuyên Ngôn: “Chúng tôi
gồm hơn 10 luật sư trước 1975 đang hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau
chia làm hai ngả tiến theo hai đường tập trung trước nhà thờ Ðức Bà vào chiều
ngày 23 Tháng Tư. Chúng tôi đã dùng một cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm
nhỏ để đọc lên bản Tuyên Ngôn. Ngay lúc đó công an ập đến bắt chúng tôi về Tổng
Nha Cảnh Sát cũ rồi sau đó giải về Phan Ðăng Lưu.”
Bản Tuyên Ngôn kêu gọi những người nông dân
trên thế giới hãy hướng về Việt Nam, để thấy người nông dân Việt Nam phải lao
động cực nhọc suốt ngày với bụng đói vì hoa màu làm ra mà không được sở hữu.Bản tuyên ngôn cũng kêu gọi công nhân trên thế giới hãy thấu hiểu thân phận công nhân Việt Nam đang phải làm việc cật lực để “dâng” lên đảng, lên lãnh tụ Cộng Sản, máu và mồ hôi nước mắt của họ.Bản tuyên ngôn cũng kêu gọi những nhà truyền giáo, khoa học gia, triết gia, văn nghệ sĩ, trí thức hãy ngưng tụng kinh, bước ra khỏi những tháp ngà nghiên cứu, bẻ gãy ngòi bút sáng tác mà hướng về Việt Nam, nơi nhà thờ, chùa chiền tự viện biến thành các trụ sở hợp tác xã, nơi mà các định luật khoa học bị bóp méo, nơi mà các văn nghệ sĩ trí thức chỉ có mỗi việc làm là tung hô nhà nước, tung hô đảng và lãnh tụ.
Bản tuyên bố kêu gọi các lực lượng văn minh trên thế giới đứng dậy, Liên Hiệp Quốc phải can thiệp để bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền được tôn trọng, để con người được bảo vệ…
Trong bức thư gởi đến Người Việt, cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ viết rằng: “Anh San là một luật sư kinh nghiệm, tinh thông luật pháp, hùng biện. Anh là một nhà tranh đấu nhân quyền kiên quyết, dũng cảm &” và là “một người bạn hào sảng, phóng khoáng, ân cần.”
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người
Việt Khốn Cùng, theo lời Thẩm Phán Phan Quang Tuệ,
“là bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam.”
Luật sư Trần Danh San bị Cộng Sản giam cầm 12
năm. Ông vượt biên sang Hoa Kỳ năm 1992.
Theo lời anh Trần Ðăng, con trai út của Luật
Sư Trần Danh San, tang lễ sẽ được tổ chức tại PeekFamily Funeral Home. Lễ viếng bắt đầu vào ngày 18 Tháng
Một Mười. Lễ hỏa thiêu vào ngày 19 Tháng Mười Một. (Ð.B.)
——————————————————–
Tuyên Ngôn Nhân Quyền tại Sài Gòn, 23-4-1977
Người Việt
Người Việt
Friday, April 29, 2011 2:37:19 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=130350
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=130350
Tài liệu của Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam
LTS - Cách đây 34 năm, vào
ngày 23 tháng 4, 1977, tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, Luật Sư Trần
Danh San, nhân danh Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, tuyên đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt
Nam Khốn Cùng.”
Ðây là một hành động can đảm của Luật Sư San và các đồng nghiệp
luật sư trong Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, ngay giữa lúc mà chế độ cộng sản còn
đang rất hung hãn sắt máu trong việc áp đặt nền độc tài chuyên chế lên toàn thể
lãnh thổ miền Nam sau năm 1975.
Nhật báo Người Việt xin đăng tải toàn văn bản Tuyên Ngôn này, kèm
theo tài liệu “ Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu,” cũng của Ủy Ban Nhân Quyền Việt
Nam, công bố vào ngày 23 tháng 4, 1977 nói trên.
***
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng
Văn bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn
Cùng,” do 2 Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp ký tên, được tuyên đọc tại
công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, ngày 23 tháng 4, 1977.
Chúng tôi những người Việt Nam khốn cùng, với tàn lực còn lại với
tinh thần tàn phế, quyết đấu tranh bằng con đường bất bạo động để kêu gọi lương
tâm nhân loại, các lực lượng của thế giới văn minh, hãy lắng nghe những lời cầu
cứu thảm thiết của những kẻ hấp hối.
- Tàn lực vì chúng tôi ăn đói và sẽ chết đói.
- Tinh thần tàn phế vì chúng tôi không được sống và suy tưởng như
con người.
Chúng tôi buộc phải cúi đầu khom lưng tung hô vạn tuế chủ nghĩa –
một chủ nghĩa đã lỗi thời và chống lại con người. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn
tiếp tục dùng ngôn ngữ con người để thức tỉnh bọn đao phủ mù quáng và tham tàn.
Vì chỉ có con đường bất bạo động mới tránh khỏi các cuộc thảm sát huynh đệ
tương tàn và khỏi làm nhơ bẩn tấm lòng trong trắng của những người Việt Nam
khốn cùng.
Hỡi các nông dân trên thế giới hãy hướng về Việt Nam – nơi mà
người nông dân phải cực nhọc suốt ngày với bụng đói. Hoa màu của họ bị tịch
thâu nhân danh quy luật duy vật sử quan. Con trâu sau khi cày còn được nghỉ chứ
người nông dân Việt Nam buộc phải theo dõi các buổi học tập nhồi sọ vô tận.
Hỡi các công nhân trên thế giới, các bạn có thấu hiểu thân phận
của người công nhân Việt Nam không? Người công nhân Việt Nam phải theo chế độ
“làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ.” Ngày nghỉ họ buộc
phải làm gấp đôi để dâng lên đảng, lên lãnh tụ mồ hôi, máu, và nước mắt của họ.
Quyền thiêng liêng nhất của công nhân là quyền đình công, quyền này đã bị tước
đoạt. Mọi ý kiến và hành động không theo khuôn mẫu sát của đảng đều đương nhiên
bị coi như hành động phá hoại, gián điệp.
Hỡi các nhà truyền giáo, các khoa học gia, các triết gia, các văn
nghệ sĩ, các trí thức, những ai đang tụng kinh hãy ngừng lại, những ai đang say
mê nghiên cứu trong tháp ngà, hãy tung cửa ra, những ai đang sáng tác với ngòi
bút, hãy bẻ gãy nó đi, tất cả hướng về Việt Nam – nơi mà chùa và nhà thờ đã bị
biến thành hội trường để tuyên truyền chính trị – nơi mà các định luật khoa học
bị móp méo để thỏa mãn chủ nghĩa – nơi mà các văn nghệ sĩ chỉ còn một việc duy
nhất là tung hô Nhà nước theo lệnh của đảng.
Các vị và các vị hơn ai hết đã hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình
cho Lòng tin, Sự thật, Công lý, Hòa bình và Tiến bộ, các vị không có thể làm
ngơ quay lưng lại thảm họa Việt Nam trong đó có con người Việt Nam khốn cùng
đang bị đày đọa trong xác thịt và câu thúc trong tinh thần. Thảm trạng này là
do một thiểu số – bọn đảng viên và tay sai của chúng – muốn áp lên dân tộc khốn
cùng này là những ảo mộng điên khùng nhất, quỉ quái nhất mà nhân loại chưa từng
thấy. Các lực lượng văn minh trên thế giới hãy đứng dậy.
Không còn chờ đợi gì nữa!
Liên Hiệp Quốc phải can thiệp cấp thời để áp dụng và áp dụng triệt
để Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền đối với những người Việt Nam khốn cùng
chiếu theo sự quy định của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Luật Sư Trần Danh San
(ký tên)
Luật Sư Triệu Bá Thiệp
(ký tên)
23 tháng 4, 1977
***
Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu
Văn bản “Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu,” do 2 Luật Sư Trần Danh San
và Triệu Bá Thiệp ký tên, được tuyên đọc tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài
Gòn, ngày 23 tháng 4, 1977.
- Chúng tôi đấu tranh để trả lại nụ cười cho trẻ thơ. Các cơn đói đã
giết nụ cười hồn nhiên của chúng. Chúng phải nói dối để cha mẹ chúng thoát khỏi
các cuộc tra vấn của công an.
- Chúng tôi đấu tranh để giành lại sự ấm cúng kín đáo của gia
đình. Nay, thay thế vào đó là các buổi sinh hoạt tập thể căn cứ trên nguyên tác
phê và tự phê để buộc chúng tôi phải lên án nhau. Thực chất của nó là Tòa Án
Nhân Dân thu nhỏ, diễn ra hằng ngày dưới sự chủ tọa của công an khu phố.
- Chúng tôi đấu tranh để khỏi phải bị chứng kiến thảm trạng trong
đó tiếng nói con người đã biến thành sự rên xiết vì sợ hãi và đói khổ. Quyền
cuối cùng của con người là quyền than thân trách phận. Quyền này cũng bị tước
đoạt vì làm như vậy có nghĩa là mất tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Ðảng. Chỉ riêng điều này cũng đủ để tống giam chúng tôi.
- Chúng tôi buộc phải đấu tranh vì đảng Cộng Sản Hà Nội buộc chúng
tôi phải chấp nhận cái không thể chấp nhân được, bắt chúng tôi phải chịu đựng
cái không thể chịu đựng được.
- Chúng tôi đấu tranh để giành lại hoa màu cho nông dân. Vì hoa
màu của họ tịch thâu. Ðó là cách duy nhất để thực hiện kế hoạch nhà nước và
tuân hành chỉ thị của đảng. Nếu người nông dân muốn xin lại một phần ít, họ
phải chứng tỏ là các tín đồ trung thành của tôn giáo mới ‘Máxít-Lêninít’.
- Chúng tôi đấu tranh để giải phóng người công nhân. Họ phải thi
hành chế độ ‘làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm trong ngày nghỉ’,
trong khi đó lương của họ bị cắt giảm qua các phong trào được gọi là “Thi đua
Xã Hội Chủ Nghĩa.”
- Chúng tôi đấu tranh cho các tu sĩ bị kết án “là con buôn thuốc
phiện.” Vì chủ nghĩa cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng.
- Chúng tôi đấu tranh cho các người đang bị giam trong các trại
tập trung cải tạo, mà nạn nhân đầu tiên là các trí thức. Tội duy nhất của họ là
muốn được sống và suy tưởng theo như Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền.
Là những con người và là con người Việt Nam, chúng tôi muốn tìm
hiểu lịch sử dân tộc và thế giới, muốn thưởng thức văn học nghệ thuật nước nhà
và các nền văn minh khác. Chúng tôi chỉ làm được điều này nếu có sự cho phép
của cơ quan kiểm duyệt của đảng. Chúng tôi buộc phải tuân theo chính sách nhân
hộ khẩu. Mọi vi phạm sẽ đưa đến việc cắt hộ khẩu. Ðiều đó có nghĩa là chết đó.
Ðể đổi lấy thẻ hộ khẩu, chúng tôi buộc phải sống trong tình trạng quản thúc,
mọi di chuyển đều bị kiểm soát. Ðó chính là bản chất của chính sách nhân hộ
khẩu.
Chính vì vậy, chúng tôi phải đấu tranh. Chúng tôi đấu tranh để
bênh con người, và các quyền bất khả xâm phạm của con người. Chúng tôi đấu
tranh để giành lại sự tươi mát của tương lai.
Luật Sư Trần Danh San
(ký
tên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét